23/01/2010 - 08:59

THỨ TRƯỞNG BỘ NN&PTNT BÙI BÁ BỔNG:

Tính toán giá thành sản xuất đầy đủ nhằm đảm bảo lợi nhuận cho nông dân

* Đã ký hợp đồng xuất khẩu khoảng 2,6 triệu tấn gạo

(CT)- Hôm qua (22-1-2010), tại TP Cần Thơ, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Bùi Bá Bổng đã chủ trì hội nghị tổng kết sản xuất lúa năm 2009 và triển khai kế hoạch năm 2010 ở các tỉnh, thành Nam bộ, với sự tham gia của lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương cùng địa phương. Theo báo cáo của Cục Trồng trọt, năm 2009 diện tích trồng lúa toàn Nam bộ (Đông Nam bộ và ĐBSCL) trên 4,27 triệu ha, sản lượng lúa đạt trên 22,6 triệu tấn, tăng 92.649 tấn so với năm 2008. Sự nỗ lực của ngành nông nghiệp, Hiệp hội Lương thực Việt Nam trong việc chỉ đạo sản xuất và tiêu thụ lúa gạo cho nông dân đã góp phần bình ổn thị trường, lượng lúa không bị tồn đọng như năm 2008.

Tuy nhiên, sản xuất lúa còn nhiều bất cập như: vụ thu đông chưa ổn định, thiếu hệ thống trong chuỗi cung ứng sau thu hoạch, cơ giới hóa khâu thu hoạch thấp (mới đạt 30% thu hoạch bằng máy và sấy đạt 25,5%) do năng lực sản xuất máy nông nghiệp nội địa yếu tỷ lệ sử dụng giống xác nhận trong gieo sạ còn thấp (ĐBSCL 35-40%, Đông Nam bộ 10-15%)... Đa số đại biểu tham dự hội nghị cho rằng, để đảm bảo cho nông dân sản xuất lúa đạt lợi nhuận và phát triển bền vững cần sự hỗ trợ từ Trung ương, có cơ chế chính sách thiết thực để nông dân tiếp cận vốn vay sản xuất ưu đãi với thời gian dài hơn mùa vụ, chủ động thị trường; đồng thời tăng cường hỗ trợ nông dân cơ giới hóa sau thu hoạch. Mặt khác, để nâng tỷ lệ giống xác nhận trong gieo sạ đạt kế hoạch 43,7% năm 2010, cần nguồn giống khoảng 175.000 tấn (tương ứng với diện tích 35.000 ha)...

Năm 2010, theo tính toán của Cục Trồng trọt, nếu ổn định diện tích sản xuất hiện tại, tăng cường sản xuất theo tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt (GAP, VietGAP) và có giải pháp tốt, sản lượng năm 2010 toàn Nam bộ có thể tăng thêm 400.000 tấn. Muốn làm được điều này, các địa phương cần khuyến cáo nông dân tuân thủ lịch thời vụ, sử dụng cơ cấu giống phù hợp và tính toán giá thành sản xuất ngay sau kết thúc gieo sạ để đưa ra giá sàn hợp lý, đảm bảo lợi nhuận cho nông dân. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Bùi Bá Bổng cho rằng: Năm 2009 sản xuất lúa nhiều thuận lợi, nhưng khâu cơ giới hóa còn bất cập và hiệu quả chưa cao. Cơ cấu giống lúa chưa được đầu tư bài bản, do vậy, cần nghiên cứu ra các bộ giống chủ lực phục vụ xuất khẩu, mỗi giống có thể gieo sạ trên 200.000 ha để có nguồn gạo cùng chủng loại với số lượng lớn. Phấn đấu nâng dần tỷ lệ gạo một chủng loại ở những năm tiếp theo. Ngành nông nghiệp địa phương phối hợp cùng viện, trường và doanh nghiệp nghiên cứu đưa ra danh mục giống xuất khẩu để làm cơ sở khuyến cáo nông dân gieo trồng, với điều kiện đảm bảo đầu ra cho nông dân...

* Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) Trương Thanh Phong, cho biết: “Đến thời điểm này, các doanh nghiệp VFA đã ký hợp đồng xuất khẩu khoảng 2,6 triệu tấn gạo các loại. Năm 2010, sản xuất lương thực trên thế giới sẽ nhiều khó khăn do ảnh hưởng thời tiết, thị trường gạo thế giới có thể tăng 6% so với năm 2009. Tuy nhiên, Ấn Độ hiện chưa có động thái nhập khẩu, do lượng gạo dự trữ nhiều và vừa trúng mùa lúa mì, đây là thị trường tác động rất lớn đến cung- cầu gạo thế giới. Trong 6 tháng đầu năm 2010, thị trường Philippines và châu Phi sẽ là thị trường chính của gạo Việt Nam”. Theo ông Phong, dù dự báo tình hình xuất khẩu gạo năm 2010 tăng, do nhu cầu thế giới tăng. Song, gạo cấp thấp của Việt Nam đang phải chịu áp lực cạnh tranh rất lớn từ Myanmar, quốc gia này đang có kế hoạch xuất khẩu 1,5 triệu tấn năm 2010 (năm 2009 xuất khoảng 900.000 tấn) và giá gạo của Myanmar rẻ hơn gạo cấp thấp Việt Nam đến 160 USD/tấn (giá chào hàng của Myanmar hiện khoảng 320-330 USD/tấn, gạo 25% tấm).

Theo ông Phong, các kho lương thực toàn vùng ĐBSCL hiện trữ 3 triệu tấn (trong đó, thành viên của VFA 2,2 triệu tấn). Năm 2010, dự kiến sẽ nâng lên 4,2 triệu tấn, nhưng còn nhiều vướng mắc trong việc giải phóng mặt bằng và doanh nghiệp vay vốn đầu tư kho cũng gặp khó. Thêm vào đó, chi phí vốn đầu tư cũng đội lên rất nhiều. Thiết bị (máy xay xát, máy đánh bóng gạo) cũng là vấn đề nan giải cho doanh nghiệp, vì hàng sản xuất trong nước không đáp ứng được nhu cầu (chỉ có 3 đơn vị sản xuất), việc đặt hàng mất thời gian 1 năm rưỡi. Trong khi máy nhập chỉ có máy tách màu gạo là đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, các máy khác không phù hợp.

THU HÀ

Chia sẻ bài viết