Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, đáp ứng yêu cầu thời kỳ phát triển mới của đất nước, xây dựng phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng gắn với hoàn thiện thể chế và công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Kỳ cuối: Định hướng và giải pháp cho giai đoạn phát triển mới

Trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Từ những ngày đầu đấu tranh giành độc lập dân tộc cho đến công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ngày nay, Đảng ta đã từng bước khẳng định vai trò cầm quyền, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu kiên cường, sáng tạo. Đặc biệt, sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, chưa bao giờ cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế lại cao như hiện nay. Những thành tựu đó là minh chứng sinh động cho đường lối đúng đắn của Đảng, đồng thời khẳng định hiệu quả của việc không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, biến động địa - chính trị và những thách thức an ninh phi truyền thống đang diễn ra ngày càng phức tạp, yêu cầu đặt ra cho sự lãnh đạo của Đảng không chỉ dừng lại ở tầm nhìn chiến lược, mà còn đòi hỏi phải có phương thức lãnh đạo linh hoạt, khoa học, hiện đại và hiệu quả hơn. Thực tiễn cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn còn những hạn chế: một số chủ trương chậm được thể chế hóa hoặc triển khai chưa đồng bộ; công tác phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị chưa thật sự nhịp nhàng; tình trạng hành chính hóa, bao biện, làm thay vẫn tồn tại ở một số cấp, một số nơi. Điều đó cho thấy việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là yêu cầu khách quan, cấp thiết, không chỉ để phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị, mà còn để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Trong giai đoạn phát triển mới, Đảng ta đã xác định rõ trong Văn kiện Đại hội XIII: phải nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền theo hướng khoa học, dân chủ, gắn với thực tiễn, bảo đảm lãnh đạo toàn diện nhưng không bao biện, làm thay. Đó không chỉ là định hướng chiến lược, mà còn là giải pháp then chốt để hệ thống chính trị vận hành thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, củng cố niềm tin của nhân dân và bảo đảm vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phương thức lãnh đạo của Đảng giữ vị trí then chốt, có ý nghĩa quyết định trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng; trực tiếp gắn liền với việc hoàn thành sứ mệnh lịch sử trước nhân dân và dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho công tác xây dựng Đảng, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ - coi đây là “cái gốc” của Đảng. Trong nhiều bài viết, bài nói, Người thường nhấn mạnh các khái niệm như “cách lãnh đạo”, “lề lối làm việc” để chỉ phương thức lãnh đạo bảo đảm tính hiệu quả, thiết thực, xem đó là “con đường chính trị đúng đắn” để Đảng ta thật sự trở thành đạo đức, văn minh, xứng đáng là lực lượng trung thành với lợi ích dân tộc. Vận dụng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và Nhà nước, trước thời kỳ đổi mới, Đảng ta thường sử dụng các khái niệm như “phương pháp lãnh đạo”, “phương pháp công tác”, “phong cách lãnh đạo”, “phong cách công tác” hay “lề lối làm việc” để mô tả phương thức cầm quyền. Tuy nhiên, cách tiếp cận này chủ yếu áp dụng cho cá nhân cán bộ lãnh đạo, chưa đi sâu vào cấp độ tổ chức đảng.
Bước ngoặt quan trọng diễn ra tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3-1989), khi Đảng ta lần đầu tiên chính thức sử dụng khái niệm “phương thức lãnh đạo của Đảng” với ý nghĩa toàn diện hơn. Theo đó, phương thức lãnh đạo được hiểu là tổng thể các cách thức, hình thức, phương pháp, quy chế, quy định, quy trình và lề lối làm việc mà Đảng sử dụng để tác động đến Nhà nước và xã hội, nhằm hiện thực hóa Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết và quyết sách của Đảng.

Bác coi vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là nguyên tắc thể hiện vai trò cầm quyền của Đảng. Ảnh minh họa: Tạp chí Cộng sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là nguyên tắc nền tảng, thể hiện rõ vai trò cầm quyền của Đảng. Theo Người, sự lãnh đạo đó không phải là sự áp đặt hay bao biện, làm thay, mà là sự định hướng chiến lược, tổ chức và dẫn dắt để Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý, còn nhân dân thực sự là chủ thể làm chủ. Nguyên tắc này vừa khẳng định tính tất yếu khách quan của sự lãnh đạo duy nhất của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam, vừa đặt ra yêu cầu Đảng phải thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo, giữ vững bản chất cách mạng, khoa học, đạo đức, văn minh để xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đây chính là cơ sở chính trị và pháp lý bảo đảm cho mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" được vận hành hài hòa, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong từng giai đoạn lịch sử.
Để tiếp tục đổi mới toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền, giữ vững vai trò “người cầm lái” của cách mạng, đưa dân tộc tiến lên mạnh mẽ, Đảng cần tập trung vào một số định hướng và nhiệm vụ then chốt.
Trước hết, phải thống nhất nhận thức sâu sắc về phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc đã xác định, tuyệt đối tránh tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng trí tuệ tập thể, bằng đường lối, chính sách, nghị quyết được thể chế hóa thành pháp luật của Nhà nước, đồng thời nêu gương bằng sự tiên phong, gương mẫu và tinh thần tự phê bình, phê bình của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm quyền trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, không đứng ngoài hay đứng trên pháp luật. Mọi cán bộ, đảng viên đều phải thượng tôn pháp luật, vừa thể hiện tính nghiêm minh, vừa khẳng định bản chất của Đảng là đặt lợi ích nhân dân lên hàng đầu. Quyền lực của Đảng là quyền lực chính trị định hướng, trong khi quyền lực Nhà nước là quyền lực pháp lý tổ chức quản lý xã hội; sự lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
Thứ hai, cần tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, thực sự trở thành “bộ tham mưu chiến lược” cho toàn bộ hệ thống chính trị. Các cơ quan tham mưu của Đảng phải được xây dựng vững mạnh cả về phẩm chất chính trị lẫn năng lực chuyên môn; đội ngũ cán bộ tham mưu phải có tư duy khoa học, tác phong chuyên nghiệp, giỏi nghiệp vụ và tận tụy với công việc. Cùng với đó, nghiên cứu hợp nhất một số cơ quan có chức năng tương đồng; rà soát, đánh giá hiệu quả kiêm nhiệm chức danh trong hệ thống chính trị để có lộ trình phù hợp, tránh chồng chéo, hình thức. Nguyên tắc “đúng vai, thuộc bài” phải được thực hiện nghiêm, phân định rõ chức năng lãnh đạo và quản lý, chấm dứt tình trạng lấn sân hoặc bỏ trống vai trò lãnh đạo.
Thứ ba, việc ban hành, quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng cần được đổi mới mạnh mẽ. Các nghị quyết phải bảo đảm tính cô đọng, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, gắn với yêu cầu thực tiễn của đất nước và từng ngành, từng địa phương. Tính khoa học, tầm nhìn chiến lược và tính khả thi phải trở thành tiêu chí bắt buộc, đồng thời nghị quyết phải khơi dậy niềm tin, động lực và khát vọng của toàn dân. Quán triệt nghị quyết không dừng ở việc truyền đạt, mà quan trọng là làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác, tự thấm nhuần, biến chủ trương thành hành động thực tiễn. Trong đó, chi bộ và từng đảng viên phải thực sự là hạt nhân, là “tế bào khỏe mạnh” của Đảng, quyết định sức sống và uy tín lãnh đạo của Đảng.
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, coi đây là khâu quan trọng bảo đảm nghị quyết đi vào cuộc sống. Kiểm tra, giám sát không chỉ để phát hiện sai phạm, mà quan trọng hơn là kịp thời điều chỉnh, phát hiện mô hình mới, cách làm hay, nhân rộng nhân tố tích cực. Phải kiên quyết xử lý nghiêm các biểu hiện lợi dụng kiểm tra, giám sát để mưu cầu cá nhân hoặc che đậy sai phạm. Cùng với đó, đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ về tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, văn kiện của Đảng, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia, nhằm tăng tính minh bạch, hiệu quả trong quản lý và phục vụ công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Đại hội XIII đã khẳng định, Đảng ta tiếp tục kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Ảnh: Dangcongsan.vn
Lênin từng căn dặn: khi hoàn cảnh thay đổi, nhiệm vụ mới đặt ra, không thể sử dụng mãi những phương pháp cũ. Đó là lời nhắc nhở có giá trị thời sự sâu sắc cho chúng ta hôm nay. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng không phải là thay đổi nguyên tắc, mà là sự sáng tạo, linh hoạt trong vận dụng, kiên định mục tiêu, đồng thời thích ứng với yêu cầu mới của thực tiễn. Thấm nhuần tư tưởng của các thế hệ lãnh đạo đi trước, trong đó có lời dạy của Tổng Bí thư Lê Duẩn về sự lãnh đạo kiên định, có nguyên tắc, không dao động trước thử thách, Đảng ta càng phải tiếp tục nỗ lực tự đổi mới, tự chỉnh đốn, phát huy vai trò tiên phong để xứng đáng là lực lượng lãnh đạo duy nhất, đưa dân tộc tiến bước vững vàng trên con đường xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong giai đoạn phát triển sắp tới, nhiệm vụ trọng yếu này tiếp tục được triển khai quyết liệt hơn, bảo đảm Đảng luôn là lực lượng cầm lái vĩ đại, dẫn dắt dân tộc bước vào một kỷ nguyên mới của phát triển và hội nhập.
Trải qua gần một thế kỷ lãnh đạo cách mạng, đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của việc đổi mới phương thức lãnh đạo đối với toàn bộ hệ thống chính trị. Đây là điều kiện quyết định để vừa bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Một minh chứng cụ thể là Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền trong bối cảnh mới. Nghị quyết đã khẳng định rõ yêu cầu phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, minh bạch giữa Trung ương và địa phương, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Cơ chế “địa phương quyết - địa phương làm - địa phương chịu trách nhiệm” đã đi vào thực tiễn, chứng minh được hiệu quả rõ rệt.
Cương lĩnh năm 1991 đã khẳng định phương thức lãnh đạo của Đảng là thông qua cương lĩnh, chiến lược, đường lối chính sách; bằng công tác thuyết phục, tuyên truyền, vận động và bằng hành động gương mẫu của đảng viên, chứ không bao biện làm thay cho các tổ chức khác. Cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ” trở thành nền tảng để đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế. Có nơi ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý chưa rõ ràng, dẫn đến tình trạng bao biện, lấn sân hoặc ngược lại là buông lỏng sự lãnh đạo. Ở một số địa phương, tình trạng “đúng vai, thuộc bài” chưa được thực hiện nghiêm, cấp ủy vẫn còn can thiệp quá sâu vào công tác quản lý nhà nước. Nguyên nhân xuất phát từ việc một số cán bộ chưa nắm vững hoặc chưa thực hiện nghiêm quy chế, nguyên tắc làm việc.
Chính vì vậy, để Đảng tiếp tục là lực lượng lãnh đạo tuyệt đối, bảo đảm dân tộc tiến lên mạnh mẽ, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh yêu cầu phải quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, kiên quyết khắc phục tình trạng làm thay hoặc buông lỏng. Đồng thời, phải phân định rõ nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý, giao đúng quyền, đúng trách nhiệm, tránh chồng chéo, hình thức.
Trong thời điểm lịch sử mới, đòi hỏi cấp bách là tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng để dân tộc ta có thể vững bước tiến lên, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức và khẳng định vị thế trong kỷ nguyên mới.
Đất nước ta đang bước đi trên một chặng đường mới với nhiều vận hội lớn, song cũng chất chứa không ít khó khăn, thách thức. Trong hành trình ấy, vai trò cầm lái của Đảng Cộng sản Việt Nam lại càng trở nên thiêng liêng và trọng trách nặng nề. Nhìn lại gần một thế kỷ qua, từ những ngày đầu đầy gian khổ cho đến những bước đi vững chắc hôm nay, có thể khẳng định rằng, mỗi thắng lợi của dân tộc đều gắn liền với sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng. Nhưng để tiếp tục đi xa, để con thuyền cách mạng vượt sóng cả mà đến được bến bờ phồn vinh, hùng cường, Đảng phải không ngừng tự đổi mới, trong đó đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị chính là chìa khóa để giữ trọn niềm tin của nhân dân và phát huy tối đa sức mạnh của cả dân tộc.
Đổi mới phương thức lãnh đạo không phải là điều gì xa lạ hay quá đỗi to tát, mà chính là cách Đảng làm cho sự lãnh đạo của mình trở nên gần dân hơn, hiệu quả hơn, khơi dậy được trí tuệ và sức mạnh của toàn xã hội. Khi Đảng biết lắng nghe tiếng nói từ cuộc sống, biết dựa vào dân, tôn trọng dân và trao quyền để nhân dân thực sự làm chủ, thì khi ấy hệ thống chính trị sẽ vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở. Ngược lại, nếu vẫn để tình trạng bao biện, làm thay, chồng chéo, quan liêu, thì không chỉ làm giảm hiệu quả quản lý mà còn dễ làm phai nhạt niềm tin vốn là gốc rễ sức mạnh của Đảng.
Thực tiễn đã chứng minh, những bước đột phá trong phân cấp, phân quyền những năm gần đây đã đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Điều đó cũng khẳng định rằng, đổi mới phương thức lãnh đạo không chỉ là việc chỉnh sửa trên giấy tờ hay khẩu hiệu, mà phải được cụ thể hóa bằng những cơ chế, chính sách linh hoạt, hiệu quả, và quan trọng hơn cả là bằng hành động quyết liệt của từng cấp ủy, từng cán bộ đảng viên.
Đổi mới phương thức lãnh đạo cũng đồng nghĩa với việc Đảng phải làm cho nghị quyết của mình ngắn gọn, dễ nhớ, dễ làm; biến những điều tưởng như khô khan thành động lực thôi thúc trong lòng người dân, doanh nghiệp, cán bộ, chiến sĩ. Mỗi nghị quyết không chỉ là văn bản chỉ đạo, mà phải trở thành ánh sáng soi đường, khơi dậy niềm tin và khát vọng, giúp mọi người cùng chung tay hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Cùng với đó, xây dựng bộ máy tinh gọn, trong sạch, vững mạnh cũng là yêu cầu cấp thiết. Một hệ thống tham mưu, giúp việc gọn nhẹ, chuyên nghiệp sẽ như “bộ não” minh mẫn, giúp cho Đảng đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời, phù hợp với tình hình. Mỗi cán bộ trong bộ máy ấy phải thực sự là người có tâm, có tầm, có trách nhiệm và dám chịu trách nhiệm. Bởi xét đến cùng, đổi mới phương thức lãnh đạo không chỉ nằm ở quy định, cơ chế, mà nằm ở chính con người gắn bó, phụng sự cho sự nghiệp của Đảng và dân tộc.
Đảng cũng phải tiếp tục đổi mới công tác kiểm tra, giám sát. Không chỉ để ngăn chặn sai phạm, mà quan trọng hơn là để kịp thời phát hiện, khích lệ những sáng kiến hay, mô hình tốt, nhân tố mới. Kiểm tra không phải để “bắt lỗi” mà là để uốn nắn, để đồng hành, để bảo đảm con đường đi luôn đúng hướng. Trong thời đại số, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất từ Trung ương tới địa phương sẽ giúp công tác này minh bạch, hiệu quả và kịp thời hơn.
Một yếu tố then chốt khác là nêu gương. Khi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu sống giản dị, tận tụy, hết lòng vì dân, thì chính sự nêu gương đó là phương thức lãnh đạo thuyết phục nhất. Nhân dân không chỉ nghe lời nói, mà tin vào hành động. Uy tín của Đảng, sức mạnh của Đảng được nhân lên chính từ tấm gương sáng của mỗi cán bộ, đảng viên trong công việc hàng ngày.
Đổi mới phương thức lãnh đạo cũng không thể tách rời khỏi việc phát huy dân chủ. Khi nhân dân được bàn, được biết, được làm, được kiểm tra, thì khi ấy mọi chủ trương, chính sách mới có sức sống bền lâu. Nhân dân chính là điểm tựa vững chắc để Đảng lãnh đạo và cũng là thước đo chuẩn xác nhất cho hiệu quả cầm quyền của Đảng.
Có thể nói, trong giai đoạn phát triển mới, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị chính là chìa khóa để mở ra cánh cửa đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của khát vọng phát triển, của niềm tin son sắt và sự đồng lòng của toàn dân tộc. Đây không chỉ là nhiệm vụ chính trị, mà còn là mệnh lệnh của lịch sử, của thời đại.
Để làm được điều đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự soi mình, tự đổi mới cách nghĩ, cách làm mỗi tổ chức Đảng phải gắn bó mật thiết hơn với nhân dân; mỗi cấp ủy phải thật sự trở thành trung tâm đoàn kết, hạt nhân trí tuệ, dám chịu trách nhiệm và dám đổi mới. Có như vậy, Đảng ta mới luôn xứng đáng là người lãnh đạo, là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc vững vàng tiến lên phía trước.
Niềm tin của nhân dân là tài sản vô giá, là nguồn sức mạnh lớn nhất để Đảng lãnh đạo. Giữ gìn và bồi đắp niềm tin ấy chính là nhiệm vụ cao nhất, là lý do tồn tại của Đảng. Mỗi bước đổi mới phương thức lãnh đạo hôm nay sẽ là nền tảng để ngày mai đất nước ta đi xa hơn, vững chắc hơn, sánh vai với bạn bè năm châu như khát vọng cháy bỏng mà Bác Hồ đã từng căn dặn. Con đường phía trước còn nhiều thử thách, nhưng với truyền thống vẻ vang, với bản lĩnh kiên định và khát vọng vươn lên, với sự đồng hành của nhân dân, chắc chắn Đảng ta sẽ tiếp tục viết nên những trang sử mới, chói lọi hơn nữa. Đổi mới phương thức lãnh đạo không chỉ để thích ứng, mà để khẳng định, để phát triển để đưa Tổ quốc Việt Nam thân yêu đi tới tương lai tươi sáng, rực rỡ.
CHI BỘ TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH HẢI 2