22/10/2010 - 09:11

KỲ HỌP THỨ 8, QUỐC HỘI KHÓA XII:

Thu thuế bảo vệ môi trường nhằm định hướng hành vi của người tiêu dùng

* Đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm

Sáng 21-10, Quốc hội họp phiên toàn thể tại hội trường thảo luận một số nội dung còn có ý kiến khác nhau về dự thảo Luật thuế bảo vệ môi trường (BVMT).

Đa số các đại biểu nhất trí với giải trình, tiếp thu của UBTVQH, cần xác định rõ bản chất, mục tiêu của Luật này là góp phần bảo vệ môi trường; mục đích chính là định hướng hành vi của người tiêu dùng, góp phần hạn chế tiêu dùng sản phẩm gây ô nhiễm; sau đó là bổ sung nguồn thu hợp lý cho NSNN. Thuế BVMT là loại thuế thu vào sản phẩm khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Thuế được tính vào giá hàng hóa, người tiêu dùng trả thuế trong giá vào thời điểm mua hàng hóa. Thuế BVMT được xây dựng trên nguyên tắc người nào sử dụng sản phẩm gây ô nhiễm sẽ phải nộp thuế. Tuy nhiên, đại biểu Nguyễn Ngọc Đào (Hà Nội) đặt vấn đề: Tại sao không định hướng cho cả 2 đối tượng là người sản xuất và người tiêu dùng ? Đại biểu cho rằng, người tiêu dùng cũng khó có sự lựa chọn khác kể cả khi người sản xuất gây ô nhiễm trong quá trình làm ra các sản phẩm, hàng hóa. Người sản xuất hàng hóa gây ô nhiễm cũng phải là người chịu thuế chứ không chỉ người tiêu dùng. Theo UBTVQH, trên thực tế, người tiêu dùng là chủ thể gây ô nhiễm do sử dụng các sản phẩm gây ô nhiễm. Mục đích của việc áp dụng thuế là định hướng, khuyến cáo người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa và thể hiện sự điều tiết của Nhà nước nhằm hạn chế sử dụng sản phẩm gây ô nhiễm, góp phần bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững. Do vậy, quy định người tiêu dùng là người chịu thuế, người sản xuất, người nhập khẩu là người nộp thuế là hợp lý.

Làm rõ mối quan hệ giữa thuế BVMT và phí môi trường, UBTVQH cũng nêu rõ: Nguyên tắc áp dụng thuế BVMT là người sử dụng sản phẩm hàng hóa gây ô nhiễm phải chịu thuế còn nguyên tắc áp dụng phí là người có hành vi xả thải trong quá trình sản xuất gây ô nhiễm phải nộp phí. Bản chất nguồn thu từ thuế BVMT không mang tính bù đắp, được đưa toàn bộ vào NSNN và chi cho các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của Nhà nước, không phân biệt mục đích sử dụng. Nguồn thu từ phí môi trường mang tính bù đắp và hoàn trả trực tiếp cho việc xử lý ô nhiễm môi trường. Do vậy, cần duy trì quy định cả về phí môi trường và quy định về thuế BVMT, không thể lấy việc thực hiện nghĩa vụ thuế thay cho việc nộp phí và ngược lại.

Kết luận phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên nhấn mạnh thêm mục đích thu thuế BVMT là áp vào khâu sử dụng, không áp vào khâu sản xuất. Đa số ý kiến muốn mở rộng đối tượng chịu thuế, tuy nhiên việc này cũng cần tùy thuộc vào khả năng, sẽ bổ sung dần, làm có lộ trình. Đối với một số sản phẩm, hàng hóa cụ thể như túi nilong, thuốc lá, xăng dầu, sẽ nghiên cứu, cân nhắc thêm trong điều kiện cụ thể của quốc gia, đảm bảo sự linh hoạt để thuận lợi trong điều hành. Riêng với quy định tại khoản 9, điều 3, Phó Chủ tịch Quốc hội cho rằng, tinh thần là đặt lợi ích chung lên trên. Quốc hội họp 1 năm 2 kỳ trong khi UBTVQH tháng nào cũng họp. Quốc hội đã giao quyền cho UBTVQH thì cũng như Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình, UBTVQH sẽ thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình.

* Chiều 21-10, Quốc hội làm việc tại tổ, cho ý kiến vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, tập trung vào các vấn đề về loại hình bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, điều kiện cấp phép, trích lập quỹ, thanh tra chuyên ngành bảo hiểm...

Đa số đại biểu Quốc hội đồng tình với việc sửa đổi, bổ sung Luật để phù hợp với cam kết Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm , phù hợp với các luật có liên quan. Đại biểu Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng) và một số đại biểu cho rằng cần phải sửa đổi, bổ sung Luật vì chưa huy động được tiềm năng, thế mạnh của loại hình này. Ngoài ra, việc sửa đổi, bổ sung còn nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thúc đẩy phát triển thị trường bảo hiểm ổn định, bền vững và đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm.

Theo các đại biểu, Luật kinh doanh bảo hiểm hiện hành quy định các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm: doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước, công ty cổ phần bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tương hỗ, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh và doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài. Theo quy định của Luật doanh nghiệp, doanh nghiệp được thành lập và hoạt động dưới các hình thức là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung quy định về các loại hình doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cho phù hợp với Luật doanh nghiệp. Đại biểu Trần Ngọc Vinh và một số đại biểu đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định Hợp tác xã kinh doanh bảo hiểm vào trong dự thảo Luật vì hợp tác xã cũng là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân và có những quy định cụ thể cho đối tượng này.

Các đại biểu đề nghị có yêu cầu bắt buộc về năng lực tài chính để chứng minh nguồn tài chính hợp pháp đối với tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm với những điều kiện, tiêu chí bắt buộc, bởi cũng như hoạt động ngân hàng, chứng khoán, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động đặc thù trong lĩnh vực tài chính, cần phải có những yêu cầu bắt buộc về năng lực tài chính đối với tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp. Một số đại biểu đề nghị quy định cụ thể, chi tiết, ngay trong dự thảo Luật về điều kiện về tổng tài sản, số năm hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, tỷ lệ góp vốn của thể nhân, pháp nhân, không vi phạm nghiêm trọng các quy định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm... hoặc quy định rõ ràng hơn thế nào là bằng chứng để chứng minh nguồn tài chính hợp pháp.

THANH HÒA-NGUYỄN BÍCH THỦY (TTXVN)

Chia sẻ bài viết