26/03/2011 - 21:25

Tấm hoành phi

* Truyện ngắn: NHẬT HỒNG

Chú Hai Phước thấy mình có phước thật. Đã bao đời nào dám ước mơ căn nhà lầu, nay bỗng dưng ngồi chễm chệ trong căn nhà ba tầng, mặt tiền lộ rộng thênh thang thuộc nội ô thành phố Cần Thơ.

Những năm đổi mới thành phố phát triển, đất chú Hai nằm vắt ngang qua con lộ Nguyễn Văn Cừ nối dài vô huyện Phong Điền. Tiền Nhà nước bồi hoàn chú dùng một phần trang trải nợ nần sau những năm cho con đi học, phần còn lại xây cất một căn nhà ba tầng đầy đủ tiện nghi. Nay con đã thành đạt có việc làm ổn định. Thằng Út Mẫn Nhu ở chung với ông, thằng này ngày một lớn lộ cá tính rõ rệt thường đối kháng với chú. Từ những việc vặt vãnh trong nhà như đặt phòng khách chỗ này, bộ sa-lông chỗ nọ, Mẫn Nhu thường có ý trái ngược với chú Hai. Hôm tân gia căn nhà quan khách đến tặng hơn hai mươi món đồ: tủ lạnh, bếp ga, quạt máy, tranh sơn mài... Trong những bức tranh này có bức dài một mét năm, có tới bốn con ngựa trong tư thế phi nước đại mang đủ sắc màu, đẹp cực kỳ. Mẫn Nhu lấy bức tranh này trịnh trọng treo giữa phòng khách. Nói: “Mã đáo thành công”. Chú Hai vô ra trong nhà thấy bức tranh lạc lỏng không có hồn phách gì mà thằng con treo giữa nhà. Những bữa chiều, những tối chú ngồi ngắm bức tranh thấy chướng con mắt.

Chú Hai nhìn bức tranh thấy buồn trong bụng mà không nói ra. Bốn con ngựa như bốn mũi kim châm chích, cái gì mà “Mã đáo thành công”. Đồng ý ngựa có sức bền bỉ dẻo dai, loài vật sinh ra để phi nước đại, để khắc phục đường xa. Nhưng còn việc thành bại là ở tự bản thân, tự đầu óc của mỗi người. Chú Hai cứ lẩn quẩn với bức tranh, có những đêm nằm mơ chú thấy ông cụ già râu tóc bạc phơ dáng vóc buồn hiu nhìn chú mà không nói lời nào. Cũng trong những giấc mơ có khi chú Hai thấy các con đánh nhau giập đầu chảy máu, hoặc cầm dao mác giết hại nhau. Chợt thức giấc lòng chú bàng hoàng vô kể. Cứ lâu chú lại mới như vậy! Cũng những lời nhắc nhở, hờn... trách!

Một buổi trưa, chú Hai chợt nhớ gia tài của ông bà để lại còn bức hoành phi không nguyên vẹn nằm lẫn lộn trong đống củi mục ở chái hè. Từ lúc xây nhà đến giờ mấy thanh gỗ ấy chung chạ với đống vôi bột thừa, sơn, sắt vụn phế thải. Chú Hai nhớ mang máng ông bà nói lại: ngày xưa, ông cố, ông sơ từ ngoài Huế vào bằng ba chiếc ghe bầu tấp vô vùng đất này bám trụ sanh con đẻ cháu. Khi ấy bộ hoành phi gồm có bốn tấm, hai tấm ở giữa và hai tấm hai bên là hai câu đối: “Phước sanh phú quới gia đường thịnh. Lộc tiến vinh huê tôn thử hưng”. Tấm chính giữa có ba chữ “Đức Lưu Phương”. Bên trên tấm đề Nguyễn Phủ Đường. Khi đi vào Nam vội vàng quá, ông sơ để quên tấm Nguyễn Phủ Đường. Cái chữ Đức chú nhìn sơ qua biết liền, mặc dù chú dốt đặc cán mai về chữ Hán. Bởi có câu thiệu: “Con chim nó đậu cành mè, chữ thập chữ tứ nó đè chữ tâm” là chữ Đức. Khi xưa treo trong nhà phải liền bộ, qua mấy lần Tây đốt nhà, chạy tản cư chôn xuống mương, nào bị bom, bị đạn pháo khi về xem lại thất lạc mất hai tấm câu đối. Chuyện kể về tấm hoành phi rất cảm động:

“Năm đó, ông nội làm đất của ông cả L gặp năm thất mùa không đủ đong lúa ruộng. Ông cả cho người tới nhà lục lạo thấy bức hoành phi cho lính mang về nhà trừ nợ. Mất tấm hoành phi ông nội cảm thấy như mất tổ tiên ông bà nên hạ mình lạy lục van xin. Bị ông cả cho người đánh đập và chửi mắng: “Bọn bây là dân đói rách giữ tấm hoành phi làm gì. Nó chỉ dành cho những người giàu có như tao! Về đi! Kẻo mất mạng đó!”. Ông nội hận đến tận xương tủy, lặng lẽ đi về! Ông quyết phải lấy lại cho bằng được tấm hoành phi, mất nó như mất tổ tiên ông bà. Cho dù nghèo đến đâu, ở dưới dạ cầu làm thuê mướn nhưng cũng phải có tổ tiên để thờ phụng chớ! Ông nội sắp sẵn mưu kế cho vợ con đi qua xứ khác làm ăn, còn ông ở lại làm thuê mướn trong đất của ông cả L, mặt khác mua chuộc tay hảo hán giỏi võ chờ cơ hội ông cả L đi vắng nhà nửa đêm xông vô cướp lấy tấm hoành phi xuống xuồng chèo tuốt qua xứ khác.

Chú Hai chui vô nhà kho lục lạo một hồi lâu lôi ra những thanh gỗ và ba mảnh ván. Chú đem lau chùi thấy thịt cây đỏ au au dù đã ngót hai trăm năm. Lúc còn ở trong vườn mấy lần thím Hai định đem ra un nồi tấm heo, chú Hai kịp về hậm hực: “Cái này mà bà dám un tấm heo à!”. Thím Hai trả lời vô tư: “Chữ nghĩa gì mọt mối ăn hết! Không chụm để làm gì!”.

Chú Hai cầm mấy tấm ván gỗ lật qua lật lại thấy có hư bể nhưng có thể gia cố lại được. Chú bỏ mấy ngày đi tìm thợ mộc. Cuối cùng rước được ông thợ mộc về nhà. Hơn nửa tháng trời thợ mộc lắp vá, gia cố mấy thanh gỗ cũ hiện nguyên hình tấm hoành phi còn lộng nét: mai cúc trúc với những chữ chạm khắc nổi bật trên hoa văn lạ mắt. Ông thợ nói: “Đúng là gỗ quí, mối bò qua lại mà không nhấm nháp được miếng nào, mọt cũng không rớ vô được!”.

Thấy chú Hai và ông thợ suốt ngày bên mấy thanh gỗ cũ, Mẫn Nhu hiểu phần nào ý định của ông già. Nói:

- Bây giờ đang lúc cạnh tranh kinh tế thị trường, cái đầu phải biết tiến thủ, con treo bức tranh tứ mã là hay lắm, đầy đủ ý nghĩa rồi! Ba còn sửa mấy chữ cổ đó làm gì!

Chú Hai phừng cơn giận nhưng cố nén, nói:

- Đã gần hết đời ba treo ở trong lòng già này luôn có ba chữ: “Đức Lưu Phương”, nhờ đó mà các con có được như hôm nay. Nếu ba đánh mất nó, chắc các con đi vác mướn cho người ta không được một giờ ngẩng đầu lên.

Mẫn Nhu vận động các chị em cố thuyết phục ba đừng nên treo tấm gỗ ấy giữa nhà. Bức tranh tứ mã ở vị trí giữa phòng khách là hợp lý! Bởi phần đông bạn bè của Mẫn Nhu là tay doanh nghiệp trong thời mở cửa, nhiều năm lăn lộn trong thương trường vui thấy bức tranh tứ mã có ý nghĩa đích thực: thời cơ và vận hội.

Đám con họp nhau làm áp lực với chú Hai. Trong lòng chú Hai quyết không nhượng bộ, nhưng ngoài mặt ông làm ra vẻ vô tư lự để tìm thời cơ. Sau khi thợ gia cố tấm hoành phi xong chú Hai để dựng đứng ở góc nhà không nói đến việc treo lên. Chú biết, tháng nữa là Mẫn Nhu đi Singapore, các con thì đi du lịch ở Vịnh Hạ Long. Chú mừng: “Thời cơ là đây!”. Treo lên là được rồi nhưng còn phải danh chánh ngôn thuận, tâm phục khẩu phục mới được. Chú Hai chợt nhớ ra ngày giỗ ông cố cũng gần, tụi nó có đủ mặt, nhân dịp này chú sẽ làm một cuộc diễn thuyết về chữ “Đức” với đám trẻ, nó nghe không nghe thì thôi, nhưng cũng phải nói!

Nửa đêm chú hai gỡ bức tranh tứ mã treo một bên, đem tấm hoành phi thay vào, chú ngắm nghía ba chữ óng ánh màu hổ phách đẹp vô cùng. Mẫn Nhu về vừa bước vô nhà, ánh phản quang tấm hoành phi treo ở giữa phòng khách chiếu thẳng vào mắt làm anh khựng lại. Trước đây hễ nói đến việc gỡ bức tranh tứ mã xuống thì Mẫn Nhu phản đối quyết liệt. Giờ Mẫn Nhu bỗng chợt thấy lòng dịu lại, chân bước lần đến gần tấm hoành phi. Ba chữ được chạm nổi trên nền miếng ván khép vào khuôn rắn chắc. Khuôn là bốn thanh gỗ chạm khắc hoa văn cổ kính có hình chim én đậu trên cành trúc liên kết theo là hình hoa mai, lan, cúc trúc. Nghĩ người xưa quá khéo tay, chỉ làm bằng thủ công chớ đâu có máy móc gọt bào như bây giờ mà đường nét vẫn sắc sảo. Ba chữ bằng gỗ mà lung linh như nét mực trên giấy. Nếu ngắm nhìn lâu lâu một chút sẽ hình dung được bàn tay thong thả của cụ đồ với ngọn bút lông lướt đi phơn phớt nhẹ nhàng trên mặt giấy cuộn theo hồn chữ ẩn hiện. Mỗi dấu ấn ngón tay người viết khi nặng ngàn cân, khi nhẹ cẫng lên làm cho nét chữ mờ ảo đến lạ thường. Mẫn Nhu lần đầu tiên nhận ra hồn của tấm hoành phi.

Ngày kỵ cơm ông cố con cháu tựu về đông đủ. Chú Hai Phước ngồi trầm ngâm trên bộ sa lông nhìn tấm hoành phi. Chú nghĩ đời mình còn may mắn nhận ra phong cách và diện mạo của ba chữ cổ này! Bao nhiêu năm nó nằm trong đống củi mục ngoài hè cùng chung số phận với đồ phế thải. Chữ nghĩa cũng lận đận theo người chạy giặc, tản cư, cũng chịu bom đạn, nay chú có nhà cửa chỉnh trang, đời sống đầy đủ tiện nghi thì ba chữ này phải trả về đúng vị trí của nó! Chú Hai Phước nói với con cháu:

- Ý của người xưa không để tiền vàng ruộng đất cho con cháu, vì tiền vàng, đất ruộng làm cho lòng nó chểnh mảng công việc, ăn chơi phung phí tài sản sẽ tiêu tan. Để đức lại cho con cháu hưởng được đời đời! Con người vốn dĩ luôn thay đổi chạy theo sự cám dỗ vật chất làm mờ chữ tâm. Ai thắng được cám dỗ giữ được tâm trong sáng, lòng dạ thẳng ngay là vun bồi được đức cho con cháu hưởng nhờ. Dân gian có câu: “Có đức mặc sức mà ăn!”. Đó là ý nghĩa của ba chữ cổ mà cha treo ở giữa nhà mong muốn con cháu dù ở bất cứ môi trường sống nào, kinh doanh hay chốn quan trường phải giữ tâm trong sáng để “Đức Lưu Phương”.

Chú Hai Phước nhìn con cháu tề tựu trong nhà, nhìn tấm hoành phi lòng nhẹ nhàng hơn bao giờ hết. Làn khói nhang lan tỏa cuốn lấy tấm hoành phi lung linh. Chừng như hồn chữ mờ ảo hiện về trong bữa giỗ giữa nhà chú Hai Phước.

Chia sẻ bài viết