Chiều Ba mươi Tết. Khi mâm bàn cúng gia tiên vừa hoàn tất, tạm gác những tất bật lệ thường của mọi gia đình ngày cuối năm, tôi tự cho mình có chút thời gian thảnh thơi bên chung trà nóng, lắng nghe bước chân của nàng xuân đang hối hả tràn về khi những cánh mai vàng vừa e ấp nở. Giữa bộn bề bánh mứt, toàn là những thứ đắt tiền của những thương hiệu nổi tiếng quốc gia, thậm chí có cả những hộp bánh của bạn bè từ nước ngoài gởi về, tôi chợt nôn nao một nỗi nhớ đến lạ kỳ về chiếc bánh phồng nướng lửa rơm thời thơ bé!
Tuổi thơ của thế hệ chúng tôi gắn liền với những năm tháng chiến tranh triền miên, đói nghèo và vất vả. Ngày chạy giặc, đêm xuống hầm tránh pháo. Nhà nào ở xóm tôi cũng đông đứa con. Người lớn tối mặt tắt đầu ăn bữa sáng lo bữa chiều còn hơi sức đâu mà nghĩ đến chuyện quà bánh cho con cháu. Tết trở thành dịp bọn trẻ no dồn bù lại bao ngày thèm thuồng, đói góp. Hồi đó, cứ mỗi độ xuân về là không nhà nào không có vài chục, vài trăm bánh phồng xếp thành từng chục trên chiếc sàng tre. Bánh phồng trên bàn thờ gia tiên thể hiện lòng tôn kính, hiếu thảo của người cháu con với bậc trên trước. Bánh phồng làm quà biếu xén ông bà, lối xóm để bày tỏ sự tri ân, lòng hòa thảo. Bánh phồng nướng lên trà nước mỗi khi có khách đến viếng thăm chúc tụng... Đến nỗi, trong đầu óc non nớt của chúng tôi không thể tưởng tượng được cái Tết sẽ như thế nào nếu không có những chiếc bánh phồng dân dã ấy!
Từ giữa Chạp những chú cu cườm cất tiếng gọi nhau trên ngọn vông đồng. Từ nhà ai đó tận cuối xóm, nhịp chày cùm cum vang lên xen với tiếng gà gọi sáng. Đêm sau, rồi đêm sau nữa, vẫn nhịp chày ấy, khi gần hơn, lúc xa hơn, đều đặn, nhịp nhàng mơ hồ hòa vào giấc ngủ bọn trẻ chúng tôi. Chợt một đêm nào đó, nhịp chày vang lên thình thịch ngay trong sân, lôi chúng tôi khỏi giấc ngủ co ro trong mảnh chăn cuộc tròn, vỡ òa một niềm vui: quết bánh phồng! Ba tôi, anh tôi, cùng mấy anh trai trong xóm không biết có mặt tự bao giờ, thay nhau vung tay quết cật lực chiếc chày vồ vào lòng cối. Đêm cuối đông, trời se sắt lạnh, mà những giọt mồ hôi rịn ra, rồi lăn dài trên những chiếc lưng trần cuồn cuộn cơ bắp của cánh đàn ông theo mỗi nhịp chày. Người quết cật lực. Người trở, trở luôn tay. Trong đôi mắt mỗi người đều ánh lên niềm vui, ấm no, hạnh phúc.
Tang tảng sáng, ổ bánh vừa chín nhuyễn, tiếng chày ngơi dần nhường chỗ cho tiếng cười vui tíu tít của chị tôi và những người bạn gái đồng niên của chị kéo tới “vần công” cán bánh phồng. Ống cán làm bằng ống tre, tròn đều mướt rượt dầu dừa, được các chị kỹ lưỡng giữ gìn bằng cách treo lên giàn khói, dùng từ Tết này sang Tết khác. Không ít chị, trong hành trang ngày xuất giá theo chồng có chiếc ống cán bánh phồng đã lẳn dấu tay người. Cứ vậy, từ trong cán ra, vừa cán vừa xoay, các chị cán đều viên bột trên lá thành chiếc bánh tròn vành vạnh như vầng trăng đêm Rằm. Mẹ tôi vừa ngồi “bắt bột” vừa lặng lẽ “chấm” từ giọng nói tiếng cười tới bàn tay cán bánh của từng chị. Theo ánh mắt mẹ, ra Giêng, biết đâu trong số những người con gái chân quê giỏi giắn ấy lại không có người trở thành chị dâu tôi!
Nếu quết bánh phồng là công việc của cánh đàn ông khỏe mạnh, cán bánh phồng là của cánh phụ nữ khéo tay thì phơi bánh phồng lại là công việc của bọn trẻ chúng tôi. Từ chiều hôm trước, theo lời mẹ, bọn tôi chạy ù sang nhà hàng xóm mượn về những đôi chiếu còn thơm mùi nắng, nồng nàn mùi lác, để mẹ lau rửa cẩn thận. (Hồi đó, bà con quê tôi, nhà nào cũng vậy, mỗi năm chỉ một lần sắm chiếu mới vào dịp giáp Tết và xong mùa bánh phồng, sau khi chu du một vòng giáp xóm, chúng mới trở về nhà và được sử dụng đúng chức năng trải giường của mình). Trên mặt trái chiếc chiếu được trải trên ván ngựa thật bằng phẳng, tôi cẩn thận úp chiếc lá có chiếc bánh vừa cán xong lên, hai tay vuốt thật đều trên lá, rồi nắm từ một phía kéo chiếc lá ngược về phía còn lại. Bao giờ phơi xong một chiếc bánh, tôi cũng dừng lại ngắm nhìn “thành quả” của mình và chờ đợi một lời khen khi bánh không bị xô lệch, không bị phồng lên hay dán quá chặt vào chiếu.
Chiều cuối năm, ở góc sân sau nhà, bên ánh lửa rơm bập bùng, mẹ tôi ngồi co ro, tỉ mẫn nướng từng chiếc bánh phồng cho kịp mâm bàn dọn cúng gia tiên. Giữa hai chiếc kẹp làm bằng tre như hai bàn tay khổng lồ, xoay trở liên tục trên lửa, chiếc bánh vừa “phồng” lên vừa trở màu vàng ươm, vô cùng bắt mắt. Bánh phồng nếp nướng lửa rơm, vừa giòn vừa phao, như tan ngay trên đầu lưỡi, khiến cho ngày xuân tuổi thơ chúng tôi thêm đậm đà hương vị.
Còn nhớ, những năm cuối thập niên 1970, tôi rời quê lên thành đi học. Chiều cuối năm, tiếng pháo đã ran ngoài đường mà chưa kịp đón chuyến xe muộn về quê, tôi nôn nao nhớ nhà, nhớ xóm. Có những đêm, nhịp chày quết bánh phồng năm xưa chập chờn cứ như gần như xa, khiến tôi mãi trở mình, không tài nào ngủ được.
Mấy mươi năm đã trôi qua...
Cha mẹ tôi đã trở thành người thiên cổ. Các anh chị tôi người một phương trời biền biệt. Bọn trẻ chúng tôi ngày ấy cũng tứ tán mỗi đứa một nơi... Bộ cối chày bằng gỗ mù u cha mẹ tôi để lại phía sau nhà vẫn còn đấy, dù đã mục mối ruỗng mọt. Chiếc ống cán chị tôi treo trên giàn khói vẫn còn đấy, dù đã bụi ám nhện giăng...
Chiều Ba mươi Tết, tôi ngồi giữa bộn bề bánh mứt với những thương hiệu nổi tiếng quốc gia.
Nhớ lắm, bánh phồng ơi!
TRẦN DŨNG