Cánh cửa sắt trại giam nặng nề kéo lại tạo ra những tiếng kêu ken két lạnh lùng. Quang nắm chặt bàn tay thô ráp của người quản giáo tóc đã muối tiêu. Gió rừng cứ thổi phần phật. Nắng ở đây khô khốc, rát rạt. Trung tá Y Nhếch, quản giáo trại cất giọng buồn buồn:
- Chú về mạnh giỏi. Cho anh gởi lời thăm thím và hai cháu nghe, có rảnh thì nhớ viết thơ lên thăm anh. Thôi đi kẻo trễ, ở vùng nầy mỗi ngày chỉ có một chuyến xe thôi, nhớ làm lại cuộc đời cho tốt nghe “mậy”. Anh cười sang sảng, tiếng cười lan xa lồng lộng giữa buổi trưa hè yên ả giữa núi rừng.
- Dạ, em đi, anh ở lại mạnh khỏe, em hứa sẽ sống thật tốt và không ... không...
Nói đến đây giọng Quang chùn xuống. Họ nhìn nhau, không ai nói thêm được gì. Quang quay quả bước đi, trên vai là chiếc ba lô bạc thếch sờn cả hai quay đeo, nhưng đối với Quang đó là món quà vô cùng quý giá. Tài sản ấy do người quản giáo, người anh, người thầy, là chỗ dựa tinh thần của Quang suốt năm năm ở nơi này.
Xe lăn bánh. Qua khung cửa nhỏ, bóng dáng của Y Nhếch cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Nước mắt Quang bất chợt lăn dài xuống má. Giọt nước mắt của người đàn ông lầm lỡ, đánh mất cuộc đời, đánh mất hạnh phúc gia đình và đã phải trả giá. Anh thấy thương người quản giáo ấy vô ngần.
***
Năm năm trước, chiếc xe U oát mang người tù tham ô tài sản nhà nước đến bàn giao cho trại giam.Trước khoảng sân rộng, Quang bơ vơ, cô đơn, lạc lõng lẫn xấu hổ. Hai tai anh cứ đỏ bừng lên, đôi mắt cứ chằm chằm ngó xuống, chiếc còng trên tay lạnh tê người. Đêm đầu tiên xa nhà anh nhớ vợ con đến quay quắt. Anh đã quá vô tâm với họ, nói đúng hơn là nhẫn tâm một cách tàn nhẫn với vợ con mình. Giờ nầy chắc họ cũng không ngủ. Nhung - vợ anh - sẽ sống ra sao? Thằng Lâm, con Thủy liệu có còn nghị lực đến trường, hay chúng bỏ học vì quá xấu hổ với bạn bè, người cha mà chúng từng khoe khoang với bạn là liêm chính, mẫu mực, tài năng.
Ánh trăng sáng vằng vặc xuyên qua song sắt trại giam. Gió rừng thổi ù ù từng đợt, sàn phòng giam lạnh âm âm nhạt nhẽo rợn người. Quang ngao ngán thở dài lẩm bẩm như người mất trí:
- Vậy là hết, cuộc đời mình chấm dứt từ đây.
***
Cả trại giam xôn xao. Tiếng chân người chạy thình thịch trong đêm vắng. Tiếng còi xe cứu thương rú lên inh ỏi, khẩn trương, tiếng cửa sắt kéo rê rinh rích, ken két.Trên xe Quang nằm im bất động, anh vừa tự tử bằng cách treo cổ với chiếc áo tù xé nhỏ làm dây. Người phát hiện Quang tự tử là cán bộ quản giáo người dân tộc Ê Đê mà sau nầy Quang mới biết tên Y Nhếch. Cũng chính người nầy đưa anh đi cấp cứu sau khi choàng lên người Quang chiếc áo của chính mình.
Sau lần đó, anh Y Nhếch thường xuyên lui tới thăm hỏi Quang nhiều hơn. Anh nói :
- Con người ai chẳng có phút nông nỗi sai lầm, cái chính là phải biết dũng cảm sửa chữa, chết là hèn, chú hiểu không ? Cố cải tạo cho tốt để được giảm án, đừng có liều vô ích, chú còn phải nghĩ đến vợ đến con chứ.
Lần đầu tiên trong đời, Quang mới bị người khác lên lớp, bảo ban, nên mắt anh cứ nóng bừng lên. Quang đã quen với phong cách mệnh lệnh sai bảo cấp dưới hàng bao nhiêu năm. Vậy mà giờ đây, anh bị người khác răn đe, chỉ dạy. Quang ậm ừ cho qua chuyện...
Trong một lần lao động, Quang bị tai nạn cần tiếp máu khẩn cấp. Khổ một nổi nhóm máu anh thuộc loại hiếm nên các trại viên đành lắc đầu phó thác cho trời. Rất may là Y Nhếch có cùng nhóm máu ấy. Lần đó Quang lại được cứu sống kịp thời. Vậy là Quang mang ơn Y Nhếch cứu mạng đến hai lần. Sau này khi trở nên thân thiết, anh được người quản giáo ấy kể về cuộc đời đầy sóng gió của mình.
Quê Y Nhếch ở tận Kon Tum núi rừng trùng điệp. Mẹ anh người Ê Đê phải lòng anh bộ đội trong cuộc hành quân qua cánh rừng Trường Sơn heo hút. Cha anh đi mãi không về, mẹ anh buồn rầu sinh bệnh và mất khi anh lên hai tuổi. Từ đó anh sống với bà con chòm xóm với buôn làng. Năm mười ba tuổi anh đi theo cách mạng, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, anh được cử đi học đại học công an và về công tác tại trại giam này hơn hai mươi năm. Có lần Quang hỏi:
- Sao anh không cưới vợ đi, ở vậy buồn chết.
Y Nhếch cười khà khà nói :
- Ai mà hổng muốn, nhưng tại mình “ vô duyên” lại là người dân tộc nên hổng cô nào dám ưng.
Sau nầy anh có kể cho Quang nghe về một mối tình - và cũng là mối tình duy nhất của anh. Cô gái đó thuộc loại gia đình khá giả nên nằng nặc buộc anh phải chuyển về thị xã, nếu không được thì nghỉ công tác. Họ chuẩn bị sẵn cơ ngơi làm ăn cho hai người. Đêm ấy anh không ngủ cứ thắc thỏm đi ra đi vào, hết điếu thuốc nầy lại đến điếu thuốc khác. Lá đơn xin nghỉ việc nằm chơi vơi trong đêm vắng. Anh nhớ cô gái ấy da diết, nhưng anh cũng thật ray rứt khi bỏ chốn này. Nơi hàng ngày anh hướng dẫn trại viên lao động, khuyên nhủ họ trở về với đường ngay lối thẳng bằng tấm lòng thương yêu chân thật của mình, một người đã chịu nhiều mất mác thương đau. Đến giờ anh cũng không tài nào nhớ hết mình đã nhận được bao nhiêu lá thư cám ơn chân thành của những trại viên đoàn tụ với gia đình. Có cả những người vượt hàng trăm cây số đường rừng trở lại thăm anh. Những lúc ấy anh thật hạnh phúc và tự nhủ với lòng sẽ gắn bó mãi cuộc đời mình với trại giam nầy dù biết rằng sẽ còn phải đương đầu với nhiều thiếu thốn khó khăn. Anh lặng lẽ bước ra sân rồi đi dọc theo hành lang các phòng giam. Trại viên đã ngủ thật sâu, anh nhìn từng khuôn mặt thân quen, hôm qua họ là người lầm lỡ, hôm nay họ thật vô tâm, lương thiện trong giấc ngủ vùi. Anh thấy mình sao nhỏ bé tầm thường quá khi đánh đổi hạnh phúc riêng tư của mình với hạnh phúc lớn lao của hàng ngàn trại viên. Sóng mắt anh cứ cay xè rồi thoăn thoắt bước vội về phòng xé toạt lá đơn quẳng ra cửa sổ. Ánh trăng cứ sáng lèm lẹm trong đêm lạnh, soi rõ bức ảnh cô gái ấy được anh trang trọng đặt trên bàn làm việc của mình. Đôi mắt cô gái như cứ trách móc, dỗi hờn, có lúc lại như bêu riếu anh, cười cợt anh, một người chẳng biết thức thời nắm lấy cơ hội đổi đời, cứ khư khư ôm lấy lý tưởng hảo huyền, chôn chặt đời mình nơi rừng thiêng nước độc.
- Vậy là mình đi “tong” mối tình đầu và duy nhất. Mới đó đã hai mươi năm. Y Nhếch cười buồn.
Từ đó không nghe Y Nhếch nhắc về cô gái ấy nữa, nhưng khung ảnh vẫn còn nguyên trên bàn làm việc của anh. Càng nghĩ Quang càng thấy mình tầm thường quá, nhỏ bé trước một phong cách sống cao thượng của người quản giáo.
***
...Quang đã trượt dài trong danh vọng phù hoa, từ một sinh viên nghèo vừa chạy bàn cho một quán ăn vừa học đại học. Quần áo thì chỉ đúng có hai bộ đổi thay, mùa mưa còn vất vả hơn, có lúc phải mặc đồ ướt đi học. Thương cha mẹ nghèo nên Quang không đòi hỏi gì, mà có hỏi cũng chẳng có gì để cho. Trong lớp chỉ có Nhung - Vợ Quang bây giờ - hiểu và thương anh hết mực. Ra trường hai năm, Quang và Nhung tổ chức một đám cưới nghèo chỉ toàn bánh ngọt với lũ bạn sinh viên ngày trước. Vậy mà cũng mất hết mấy chục ngàn đồng đến nổi Nhung phải bán đôi bông tai trang trải...
Mươi năm sau, Quang đã leo dần đến vị trí giám đốc xí nghiệp bằng tài tháo vát, năng nổ lẫn “ ngoại giao” của mình. Anh buộc Nhung ở nhà trông con, ngôi nhà cũ được thay bằng ngôi biệt thự sang trọng, tiện nghi. Hôm đi nước ngoài về, Quang còn mua hai chú chó Bẹc giê của Đức ngốn hết cả chục triệu đồng. Hai đứa con đi học bằng xe du lịch quanh năm, mỗi tháng anh chỉ ăn cơm nhà qua quýt với vợ con đôi ba lần, còn lại là những trận nhậu thâu đêm ở các vũ trường, nhà hàng quán ăn sang cả. Nhiều lần Nhung hoài nghi.
- Tiền ở đâu mà anh sắm sửa nhiều đến như vậy?
Bao giờ Nhung cũng được câu trả lời gắt gỏng:
- Đàn bà biết gì mà nói, chuyện đàn ông đừng có xía vô.
Thấy chồng cáu gắt, Nhung lặng im đi về phòng ngồi khóc một mình.
Những ngày ở trại Quang mới thấm thía hết nỗi khát khao của sự tự do, nỗi ân hận cứ kéo nhau về giày vò bêu riếu anh. Không một thằng bạn nào, nhân viên nào tìm đến thăm anh. Có lẽ những người ấy đang nghĩ anh nhận bản án trên là xứng đáng, là một sự trả giá rất sòng phằng, công bằng. Chỉ có Nhung và con anh ba tháng một lần đến thăm anh. Lúc ấy cả nhà cùng khóc. Nhung kể : tài sản đã bị kê biên phát mãi để thi hành án. Ba mẹ con về tá túc bên ngoại. Cũng còn một số bạn bè của hai vợ chồng động viên an ủi, nhờ vậy nỗi buồn cũng nguôi ngoai. Nhung đang may gia công ở một tổ hợp tác cuộc sống tạm yên ổn. Nhung hỏi Quang:
- Anh còn nhớ anh Tùng, nhân viên phòng tài vụ không ?
- Nhớ, rồi sao ? Cái thằng bướng bĩnh soi mói chuyện của xí nghiệp, chính anh ký quyết định cho nó nghỉ việc, sao lại quên được.
Nhung lặng im không nói gì nữa, chỉ còn tiếng thở dài ngao ngán, buồn buồn.
***
Đường về quê với Quang hôm nay đổi mới nhiều. Xe đi qua ngôi nhà cũ Quang không đủ nghị lực để nhìn vào. Có lẽ sự tiếc nuối quá khứ lẫn sự xấu hổ đang đan xen trong tâm hồn anh.
- Ba về, ba về mẹ ơi, tiếng con Thủy, thằng Lâm reo lên thật to, Nhung hấp tấp chạy từ cái mương sau nhà ra ôm chầm lấy chồng, nước mắt ba mẹ con cứ thỏa sức lăn dài. Lối xóm đến thăm hỏi thật đông, chú Ba - trưởng ấp ôn tồn nói :
- Thôi chuyện cũ bỏ qua nghe con, ráng mần ăn đỡ đần cho vợ con nó nhờ. Vừa nói chú vừa xoa xoa lên đầu Quang như thuở còn nhỏ thường sang chơi đánh đáo, bông vụ với thằng An con chú.
- Nhung nè, tiền đâu mà em cất ngôi nhà nầy vậy?
- Tiền của cơ quan chú Tùng cho đó ba. Tiếng con Thủy chen vào.
- Tùng nào?
- Chú Tùng bị anh cho nghỉ việc đó. Giờ chú là tổ trưởng tổ may gia công của em nè, biết chuyện gia đình mình chú vận động anh em hùn tiền cất nhà nầy đó.
Quang bần thần ngồi xuống ngạch cửa. Cái người mấy năm trước mình xua đuổi ra khỏi cơ quan không thương tiếc, giờ lại đứng ra cất mới ngôi nhà cho vợ con mình có nơi che mưa trú nắng, tạo công việc cho Nhung. Có một cái gì nghèn nghẹn trong lồng ngực anh, Tùng ơi !
Đêm đầu tiên được ngủ ở nhà sau năm năm ở trại, Quang không tài nào chợp mắt. Nhìn nét mặt hạnh phúc của Nhung, của Lâm, của Thủy, Quang nghe ấm áp lạ thường, hạnh phúc vẫn chưa từ chối với anh. Tiếng thông reo vi vu phía sau nhà trong đêm trăng sáng làm Quang nhớ đến Tùng với nỗi ân hận vô cùng. Quang nhớ đến người quản giáo công an bám trụ ở một vùng đất khó đánh thức phần thiện của những trại viên, đang làm hồi sinh những mảnh đời lầm lỡ như Quang, nhớ người nhân viên cũ anh từng cư xử tệ bạc...