05/01/2008 - 22:29

Truyện ngắn

Hạnh phúc cuối đường

NGÔ NGUYÊN

Chị dắt chiếc xe đạp đi một quãng đường cũng khá xa. Qua hai ngã tư có tới ba chỗ sửa xe nhưng chị không dừng lại. Mồ hôi lấm tấm trên trán, hai gò má chị đỏ lừng, lưng áo bà ba ướt loang lổ. Cuối cùng, chị đã tới dưới bóng cây bàng, nơi có người thương binh cụt cả hai chân thường sửa xe cho chị.

Anh đỡ chiếc xe từ tay chị, lật nó nằm xuống nhẹ nhàng bằng đôi tay rắn chắc của mình. “Lại lủng ruột nữa chớ gì? Cái ruột này chắc phải thay quá! Vá sáu lần rồi còn gì!”. Chị ngập ngừng “Anh coi còn xài đỡ được hôn? Tôi... tôi chưa lãnh lương”. Bằng những thao tác nhanh nhẹn, anh lấy cái ruột xe ra khỏi vỏ rồi bơm hơi vào đó. Anh đặt nó vào thau nước. “Đây nè, hai chỗ luôn!”. Nhìn cái ruột xe đầy những chỗ vá, anh lắc đầu “Nó bịnh còn nặng hơn tôi nữa. Thôi, cho nó nghỉ an dưỡng đi! Tôi thay cái khác cho chị”. Chị nhìn anh, vẻ ngại ngùng “Nhưng hôm nay tôi... tôi không còn tiền...”. “Không sao, tôi còn mấy cái ruột mua sẵn. Nếu không thay, chị chạy không an toàn đâu. Vỏ cũng mòn hết rồi, hay là tôi thay luôn. Chị đi đường xa, nguy hiểm lắm!”. Anh vừa nói vừa làm. Chị ngồi xuống cái ghế con, quệt mồ hôi, lòng đầy lo lắng. Đã hơn mười một giờ rồi. Bà má chồng chắc đã đói mà không tự lo cho mình được một bữa ăn. Từ khi có tin báo thằng con mất tích ở chiến trường Campuchia thì bà đâm ra lẩn thẩn. Lúc đầu, thỉnh thoảng bà lại lên cơn kêu khóc, hoảng loạn. Bây giờ đã nhiều năm, bệnh tình cũng ổn. Tuy không còn lên cơn nhưng bà lại không nhớ được gì ngoài đứa con dâu là chị. Chỉ khi có mặt chị, bà mới yên tâm. Chị chăm lo cho bà như chăm lo cho một đứa bé. Đói, bà kêu chị. Lạnh, bà kêu chị. Những lúc chị đi làm, bà ngồi lẩm bẩm “Con đi chợ về mau, má sợ lắm. Con về cho má ăn cơm đi!”.

Ngày chị dọn nhà về khu ổ chuột nầy, nhìn cách chị cư xử, ai cũng tưởng bà là má ruột của chị. Bây giờ biết chuyện, mọi người đều tấm tắc khen “Làm sao lại có được một cô dâu Thoại Khanh như vầy chứ! Bà già có phước thiệt! Gặp đứa khác, nó chẳng quăng bà vô nhà dưỡng lão rồi lấy chồng cho sướng thân”. Tiếng là vợ chồng, sự thật thì đâu phải vậy. Hai người vừa sắp cưới thì má chị đột ngột qua đời. Chôn cất vừa xong thì anh lên đường. Chị đau khổ vì mất mẹ nên cũng không nghĩ ngợi gì cho chuyện riêng tư. Cứ nghĩ rồi anh cũng về. Chị đem nỗi nhớ thương người mẹ ruột vun đắp cho bà mẹ chồng hiền từ như củ sắn củ khoai. Chị dọn về ở chung để chăm sóc bà. Chị đối với bà bằng tình thương yêu của đứa con gái dành cho mẹ. Rồi tin anh mất tích. Đó là một buổi chiều mưa. Người xã đội trưởng dầm mưa tới nhà báo tin. Bà nhìn anh hồi lâu rồi lặng lẽ bỏ ra ngoài. Bà đi lang thang trên con đường mòn cặp mé sông. Chị đi theo, cứ sợ bà nghĩ quẩn rồi nhảy xuống. Nhưng bà cứ đi như vậy đến tạnh mưa. Chị dỗ dành bà cũng là dỗ dành mình “Về thôi má! Biết đâu tin nầy chưa chính xác. Biết đâu mai mốt có tin ảnh vẫn bình an”. Chị giữ gìn hai tiếng “biết đâu” cho mình như sợi chỉ mong manh treo bên dưới là một quả chuông đồng. Chị sợ cái ngày tiếng chuông vang lên. Chị sợ cái ngày sự thật được phơi bày. Chị cũng có tình cảm. Chị chỉ là một người con gái yếu đuối. Vậy mà chị phải cố gồng người lên, gánh vác cái trọng trách an ủi mẹ chồng, làm cho bà tin là anh còn đó. Một năm rồi hai năm... Bây giờ đã mười hai năm rồi, chị không còn trẻ nữa... Bà mẹ chồng đã trở thành một đứa trẻ. Chị đau lòng khi ngắm nhìn bà. Có ngày, bà ngồi thừ chẳng buồn ăn uống, miệng cứ lẩm bẩm “Đi gì mà mấy tháng rồi hổng về. Con của con lớn rồi, mai mốt nó đi học rồi con”. Những lúc ấy chị lại khóc. Tình yêu dành cho anh theo năm tháng đã phai nhạt rồi. Nhưng còn niềm thương xót người mẹ bất hạnh nầy vẫn còn đó. Chị không thể bỏ mặc bà. Đêm ngủ, bà cứ nói mơ rồi ôm chặt lấy chị. Có đêm, chị lặng lẽ khóc. Rồi chỗ ở bị giải tỏa, chị dắt dìu bà ra thị xã mua được cái nhà nhỏ trong một xóm lao động và xin vào làm công nhân chế biến thủy sản.

* * *

Đã ba ngày nay chị đến chỗ làm với tâm trạng lo lắng không yên. Mấy lần thao tác sai khiến người tổ trưởng tốt bụng cũng quan tâm “Bộ má lại bịnh sao? Tôi thấy cô như mất hồn mấy bữa nay rồi”. Chị cười giả lả “Dạ, đâu có!”. Chị cũng thấy lạ lùng cho mình. Sao mình cứ như vầy kia chứa! Bà má chồng vẫn bình thường, chỉ có người ấy đã ba ngày nay không bày đồ sửa xe dưới gốc bàng nữa. Không hiểu sao, khi đạp xe ngang qua, nhìn cái chỗ quen thuộc đó trống huơ, chị lại thấy như thiếu vắng một cái gì. Chị nghĩ nhiều về anh - Người thương binh cụt hai chưn mà mối cảm tình, sự quan tâm tới chị nhiều hơn mối quan hệ giữa một người khách và anh thợ sửa xe. Có một ngày mưa, chị không hiểu tại sao mình lại cố đạp xe tới chỗ anh mới chạy vào đụt mưa. Anh kéo ghế cho chị ngồi rồi gợi chuyện. Chị nói chuyện của mình. Anh thở dài. Anh nhớ tới mẹ, người mẹ đã mất từ khi anh mới được mười một tuổi. Anh thèm tình mẹ. Anh nhớ da diết cái nhà nhỏ bên sông, nơi mỗi mùa nước nổi, anh lại theo mẹ bơi dọc bờ sông hái bông điên điển. Rồi những bữa cơm nghèo nhưng chan chứa tình thương yêu của mẹ. Những ngày đạn bom ác liệt, mẹ vẫn không quên nắm cơm gói trong lá chuối đem xuống hầm cho anh đỡ đói. Mẹ mất trong một chiều tiếp gạo vào cứ cho ba và đồng đội. Chiếc xuồng nhỏ đã chở nhiều hơn sức chứa của nó. Ngã ba sông ầm ào những con sóng trở mùa. Mẹ không dám bỏ bao gạo nào xuống sông. Mỗi bao gạo, bao thuốc men đều là sự sống của ba và các cô chú ở cứ. Mẹ vật vã đương đầu với sóng gió. Mẹ nghĩ tới đứa con đang chờ đợi ở nhà. Mẹ nghĩ tới người chồng và các đồng chí đang thiếu thuốc men, lương thực. Mẹ cố chèo... Hôm sau, người ta thấy xác mẹ nổi lên trên bến nước gần nhà. Thằng con trai ngồi khóc lặng lẽ. Mấy ngày sau, ba đưa nó vào cứ để tiện bề coi sóc. Mười bốn tuổi, anh đã làm liên lạc. Trận đánh sau cùng 29-4, ba hy sinh, còn anh đã cống hiến một phần thân thể mình cho ngày độc lập.

Chị tìm tới thăm vì biết anh vừa xuất viện. Căn nhà tình nghĩa của phường cấp cho mấy năm trước tuy nhỏ nhắn nhưng rất ngăn nắp, sạch sẽ. Anh thảng thốt nhìn chị:

- Sao... sao chị biết nhà tôi?

- Tôi hỏi thăm, nghe người ta nói anh bịnh. Sẵn vừa lãnh lương, tôi tới trả tiền vỏ ruột xe hôm trước.

Giọng chị run run. Trả tiền chỉ là cái cớ. Chị quyết tâm tìm thăm anh. Bà bán bánh mì gần chỗ sửa xe đã cho biết anh bịnh. Lòng chị như lửa đốt “Tội nghiệp cậu Tân lắm! Sống chỉ một mình. Những lúc bịnh hoạn, cậu ấy cũng tự xoay xở thôi! Tánh cậu vậy đó, chẳng chịu nhờ vả ai. Mấy bữa trước nghe nói phải nhập viện vì vết thương cũ tái phát. Bác sĩ tính mổ lấy miểng đạn ra”.

- Tôi nghe bà Tư bán bánh mì nói anh vừa xuất viện. Anh có định mổ không?

- Không mổ cũng không được. Bây giờ, tùy thuộc vào quyết định của bác sĩ. Xin lỗi, chị róc nước uống đi, trong bình có nước nóng.

Chị nhìn anh. Một nỗi thương cảm dâng lên làm mắt chị cay cay. Anh lúng túng:

- Chị ghé thăm tôi cám ơn lắm! Nhưng bây giờ đã gần mười hai giờ, chị còn làm ca chiều nữa mà!

- Tôi được nghỉ hai ngày, nhà máy hết tôm rồi. Anh có cần giúp gì không? Rồi chuyện ăn uống?

Anh cười, ánh mắt nhìn chị biết ơn:

- Tôi có mấy người lối xóm tốt bụng. Khi bịnh hoạn vầy, tôi nhờ họ mua thức ăn.

- Rồi tới chừng anh mổ thì sao? Anh định nhờ ai chăm sóc?

- Bịnh viện quân y có người mà, không sao đâu! Cám ơn sự quan tâm của chị.

Cả hai chợt im lặng. Không ai dám nhìn người đối diện. Anh định nói gì rồi lại thôi. Môi chị run run... Chị cố kềm xúc động.

- Thôi! Tôi để tiền đây. Anh ráng mau hết bịnh. Chừng nào mổ, anh nhắn bà Tư cho tôi hay coi tôi có giúp được gì hôn.

Chị nói rồi, vơ lấy cái nón bước nhanh. Nắng hừng hực trên con hẻm xi măng làm mặt chị nóng bừng. Không biết cái nóng vì nắng trưa hay vì câu nói xuất phát tự đáy lòng của chị.

* * *

Hai mẹ con đang ăn cơm chiều. Trời đã trở chướng. Cái mùi gió chướng làm nôn nao lòng người. Bỗng dưng hồi sáng nầy bà má chồng đòi ăn đậu rồng chấm tép kho. Đó là món ăn bà thích nhất lúc anh chưa ra đi. Chị mừng thầm - không lẽ bà đã từ từ nhớ lại rồi sao. Chị ra chợ mua tép về kho, mua luôn một ít đậu rồng. Bà cầm mấy trái đậu rồng lên ngắm nghía “Thằng Hai hồi đó ưa đậu rồng lắm, con nhớ chừa cho nó với nghe!”. Vậy là xong. Bà vẫn khi nhớ khi quên. Chị dỗ dành “Má ăn ngon miệng đi! Chừng nào ảnh về, mình mua cái khác mà!”. Bỗng chị thảng thốt nhìn ra, chiếc xe lăn vừa dừng lại ở cửa. Chị chưa kịp phản ứng gì, người mẹ đã bao năm chờ con bỗng chạy ra “Thằng Hai về rồi con, nó về rồi nè!”. Bà ôm chầm lấy Tân thổn thức “Trời ơi! Con đi đâu lâu quá bây giờ mới về! Má nhớ con lắm Hai ơi!”. Chị trấn tỉnh bà “Má ơi! Không phải anh Hai đâu, anh Tân là thợ sửa xe ở ngã tư đằng kia kìa!”. Bà buông tay ra rồi chăm chăm nhìn anh “Sao lại không phải thằng Hai? Con bị thương hả? Con cụt hết hai chưn rồi hả? Tội nghiệp con tôi quá?”. Anh nhìn bà rồi nhìn chị “Bác tưởng tôi là anh Hai, nếu bác vui mừng như vậy thì cứ để bác vui, có sao đâu!”. Chị im lặng nhìn anh. Bà mẹ vẫn đăm đắm nhìn anh “Con tưởng má quên con rồi sao? Con đi bộ đội mấy năm rồi mà!. Con bị thương mất hai chưn rồi, tội nghiệp con tôi quá!”. Anh nghe một nỗi thương cảm dâng trào. Tại sao không để bà vui. Bà chờ con. Anh thiếu mẹ. Anh khẽ khàng “Con về rồi, má vui hôn má?”. Bà bật khóc “Vui... vui lắm con ơi! Con ăn cơm đi, có đậu rồng nữa nè! Con ưa đậu rồng lắm mà!”. Chị nháy mắt “Anh ăn cơm luôn nghe! Còn nhiều lắm!”. Anh đành phải đóng trọn vai diễn bất đắc dĩ của mình.

Vừa tan ca, chị tất tả ghé vào bịnh viện. Anh đã mổ được hai ngày nay. Mảnh đạn cuối cùng đã được lấy ra. Từ đây, anh sẽ không phải chịu những cơn đau khi trái gió trở trời nữa. Bà mẹ quấn quít bên anh vì bà cứ tin đó là con trai mình. Cả anh và chị đều bị đưa vào một tình huống khó giãi bày. Nhưng má chồng chị đã vui rồi. Bà chăm chút cho anh mấy ngày nay. Coi mòi bà đã nhớ lại mọi điều. Chỉ một điều không thay đổi - Bà cứ nghĩ anh là con mình. Cái ngày anh đến nhà chị là để cho hay anh sắp mổ. Anh không biết tại sao mình lại báo tin nầy. Ở viện quân y, vẫn có chế độ chăm sóc đặc biệt cho anh. Nhưng tận đáy lòng, anh vẫn muốn chị biết tin. Rồi câu chuyện nhìn con đột ngột đến nỗi anh phải vào cuộc. Anh đóng vai đứa con để cứu vớt trái tim người mẹ. Không ngờ, diễn biến của câu chuyện lại suôn sẻ tới vậy. Bà đã thay đổi tới không thể tốt hơn được nữa. Bà chăm chút anh và luôn miệng “Hai à! Con ráng mau hết bịnh đi! Con về cho vợ con đỡ cực. Nó hiếu thảo với má lắm! Nó tốt lắm con!”. Chị đặt mấy bọc thức ăn lên bàn. Anh nhìn chị, ánh mắt trìu mến và tin cậy. Chị hơi bối rối “Tôi mua thức ăn sẵn, tôi chưa kịp nấu”. Chị múc cháo ra chén rồi khựng lại. Bà mẹ đỡ lấy chén cháo “Để má đút cho nó, con nghỉ mệt đi!”. Rồi như đang chăm chút cho đứa con thơ dại của mình, bà đút từng muỗng cháo cho anh. Chị rơm rớm nước mắt “Bà cứ tưởng anh ấy là con mình. Dẫu sao cũng tốt, dẫu sao bà cũng vui rồi!”.

Buổi chiều, hai mẹ con ngồi ở băng đá trong sân bịnh viện. Anh đang được khám lại. Bà nói trống không “Mai mốt nó hết bịnh rồi, nó về nhà má vui lắm! Con mua cái giường nhỏ cho má. Giường lớn bây giờ của vợ chồng tụi con”. Chị chết cứng. Mỗi lúc, chị càng bị đẩy vào chỗ khó xử hơn. Bà mẹ chồng đã nghĩ được mọi điều nhưng bà cứ tin mình đã tìm lại được đứa con.

* * *

Họ sống bên nhau rất hạnh phúc. Anh vẫn ngày ngày bày đồ sửa xe dưới tán bàng. Chị hai buổi đến nhà máy. Bà mẹ tươm tất công việc nhà. Họ đã dọn về căn nhà tình nghĩa của anh. Lối xóm vẫn hai luồng dư luận “Trời đất! Bả nhìn lại con mình thật sao?”. “Không phải đâu. Bà cứ tưởng con mình, nhưng cậu ta cũng được quá đi chứ!”. Ai nghĩ sao cũng được, miễn hai người trong cuộc biết lòng mình ra sao. Cho dầu bà mẹ không nhầm lẫn chuyện đứa con, sớm muộn gì họ cũng bên nhau. Vì chỉ có chị mới khiến anh nhận ra mình cần một mái gia đình biết bao. Và chỉ có anh mới làm nóng lại trái tim băng giá của chị. Căn nhà tràn ngập niềm vui. Vào mỗi chiều, bà mẹ thường nằm trên chiếc võng giăng ở hàng ba và lẩm bẩm một mình “Má biết con đâu còn nữa, nhưng vợ con phải có người bầu bạn, nó đâu thể sống thui thủi một mình. Được một đứa con dâu như vậy là phước của má. Nó đáng được hưởng moi điều tốt đẹp con à!”.

Trong mắt bà bấy giờ là hai giọt nước mắt của nhớ thương và hạnh phúc.

Chia sẻ bài viết