13/04/2010 - 08:26

Phiên họp thứ 30 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Đề xuất sớm ban hành chuẩn nghèo mới, phù hợp ở các vùng khác nhau

* Cho ý kiến vào dự án Luật Công đoàn (sửa đổi)

Mở đầu phiên họp thứ 30, sáng 12-4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) khóa XII đã tiến hành giám sát chuyên đề việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo qua Chương trình 135 giai đoạn II (2006-2010); việc quản lý, lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án liên quan trực tiếp đến xóa đói giảm nghèo trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn.

Theo Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Ksor Phước, Trưởng Đoàn giám sát, nhìn chung, việc thực hiện xóa đói giảm nghèo Chương trình 135 giai đoạn II và các chương trình, mục tiêu quốc gia, dự án khác trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn bước đầu giải quyết tương đối đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội (KTXH), đáp ứng được nhu cầu tối thiểu cho phát triển sản xuất và ổn định đời sống nhân dân.

Qua giám sát cho thấy, sản xuất nông nghiệp của vùng đặc biệt khó khăn có bước phát triển nhờ áp dụng giống mới, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi; các tỉnh xuất hiện nhiều điển hình nông dân sản xuất giỏi. Những nơi đoàn giám sát đến làm việc đều có đủ trường lớp, các xã có trên 90% học sinh tiểu học trong độ tuổi đến trường; cơ sở y tế được cải thiện. Đa số các xã đặc biệt khó khăn có thu nhập bình quân từ 4 triệu đồng/người/năm trở lên; tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm 4%, cao hơn bình quân cả nước 2 lần. Tuy vậy, tỷ lệ này lại thiếu bền vững, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn khá lớn. Nếu thực hiện theo chuẩn nghèo mới hoặc bị ảnh hưởng thiên tai, mất mùa, tỷ lệ hộ nghèo vùng này sẽ trở lại rất cao. Đến cuối năm 2009, một số tỉnh vẫn còn một số xã có tỷ lệ nghèo cao như Tuyên Quang, Lạng Sơn, Điện Biên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi....

Đoàn giám sát cho rằng một trong những tồn tại hiện nay là năng lực của cán bộ cơ sở vùng đặc biệt khó khăn còn hạn chế, bất cập so với yêu cầu, nhiệm vụ của chương trình. Chất lượng làm chủ đầu tư thấp, phần lớn các công việc của chủ đầu tư vẫn do cán bộ cấp huyện đảm nhiệm. Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất ở các địa phương chủ yếu là hỗ trợ trực tiếp cho người dân; tỷ lệ vốn giành xây dựng mô hình, chuyển giao tiến bộ KHKT thấp, chưa đáp ứng mục tiêu, yêu cầu nâng cao năng lực, phương pháp sản xuất mới cho đồng bào. Nguyên tắc “xã có công trình, dân có việc làm tăng thêm thu nhập từ việc tham gia lao động xây dựng công trình” kết quả còn hạn chế...

Đoàn giám sát nêu lên 14 kiến nghị đối với Quốc hội, UBTVQH, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các địa phương. Trong đó, có đề nghị Quốc hội quyết định chủ trương tiếp tục đầu tư phát triển KT-XH các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2011-2015 với một chương trình toàn diện, bền vững hơn. Cùng đó là việc sớm có hệ thống chính sách hỗ trợ, giúp đỡ toàn diện và đồng bộ cho các vùng đặc biệt khó khăn; sớm ban hành chuẩn nghèo mới, phù hợp với nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của xã hội ở các vùng khác nhau để làm cơ sở điều tra, thống kê, đánh giá mức độ nghèo và khoảng cách giàu nghèo ở nước ta hiện nay, hoạch định chính sách cho giai đoạn tới.

Phát biểu tại cuộc họp, các ủy viên UBTVQH cơ bản nhất trí, đồng tình với những đánh giá, kiến nghị trong báo cáo giám sát, đồng thời đề nghị bổ sung, làm rõ một số vấn đề. Theo Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội Trương Thị Mai, mục tiêu lớn nhất là giảm nghèo bền vững bởi giảm nghèo nhanh thì tái nghèo cũng nhanh. Chuẩn nghèo phải được xây dựng không chỉ dựa vào thu nhập mà sắp tới cần được thay đổi, cụ thể hóa hơn, không thể áp đặt chung cho tất cả đối tượng, mỗi vùng, mỗi nơi có điều kiện khác nhau. Lồng ghép nguồn lực cũng là một vấn đề quan trọng để tránh tình trạng trùng lắp, chồng chéo về chính sách giảm nghèo, về điều hành, liên kết trong xóa nghèo. Bà Trương Thị Mai đề nghị nên tiếp tục nghiên cứu xây dựng một mô hình với cơ chế quản lý hiệu quả hơn, khuyến khích sự tham gia của các địa phương, người dân, có chính sách khuyến khích thoát nghèo. Một số khía cạnh cũng cần phân tích thấu đáo hơn như thu nhập bình quân của hộ nghèo so với thu nhập bình quân của người dân, trong đó có tính đến yếu tố trượt giá; mức độ đầu tư của ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác cho chương trình này; khoảng cách cận nghèo-nghèo; cách thức tổ chức thực hiện... Đồng tình với ý kiến của bà Trương Thị Mai, Phó Chủ nhiệm UB Dân tộc Hà Hùng cũng cho rằng, ngoài tiêu chí thu nhập bình quân, chuẩn nghèo còn phải tính đến các tiêu chí như cơ sở hạ tầng, điều kiện KT-XH, môi trường sống...

* Chiều 12-4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận, cho ý kiến vào dự án Luật Công đoàn (sửa đổi).

Thảo luận về dự án Luật, Trưởng ban Dân nguyện Trần Thế Vượng bày tỏ quan điểm đồng tình phải sửa đổi Luật Công đoàn cho phù hợp với tình hình mới. Đại biểu nhấn mạnh việc xây dựng Luật phải thể chế hóa sâu sắc hơn nữa quan điểm của Đảng được nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa X), đó là “đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn các cấp; đổi mới mạnh mẽ tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp; không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của công đoàn cơ sở, để công đoàn thực sự là chỗ dựa vững chắc của công nhân tại doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, có sức hấp dẫn đối với người lao động và tạo được sự đồng tình, ủng hộ của người sử dụng lao động”; đồng thời công đoàn phải lấy việc “xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội làm mục tiêu hoạt động”.

Đại biểu Trần Thế Vượng và Trương Thị Mai - Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội nêu lên một thực tế là Luật Công đoàn và Bộ luật Lao động có mối quan hệ mật thiết với nhau. Rất nhiều quy định trong Luật Công đoàn liên quan đến Bộ luật Lao động. Đại biểu Trương Thị Mai dẫn chứng trong Bộ luật Lao động có tới 50 điều liên quan đến Luật Công đoàn nằm ở 3 chương. Chính phủ đề nghị chưa đưa Dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) ra trình xin ý kiến tại kỳ họp Quốc hội sắp tới, để nghiên cứu kỹ thêm. Chính vì cũng cần nghiên cứu, cân nhắc việc xem xét dự án Luật Công đoàn tại kỳ họp tới, đại biểu Trần Thế Vượng đề xuất 2 Ban soạn thảo và Ủy ban thẩm tra 2 dự án Luật Công đoàn và Bộ luật Lao động phải có sự bàn bạc, phối hợp đưa ra giải pháp, phương hướng giải quyết hợp lý để thống nhất trước khi trình Thường vụ Quốc hội và Quốc hội.

Đại biểu Trương Thị Mai nêu lên con số khoảng 3.000 cuộc đình công (trong 10 năm) đã diễn ra đều không đúng pháp luật, điều đó cho thấy thiết chế pháp luật chưa đi vào cuộc sống. Chính vì vậy đại biểu tán thành với đề nghị của Ủy ban Pháp luật là cần làm rõ tính khả thi của quy định quyền và trách nhiệm của Công đoàn trong việc “Tổ chức và lãnh đạo đình công theo quy định của pháp luật”. Theo quy định của Bộ luật Lao động, quyền đình công là quyền của người lao động và việc tổ chức, lãnh đạo đình công thuộc trách nhiệm của Ban chấp hành công đoàn cơ sở ở doanh nghiệp (hoặc đại diện tập thể lao động ở doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn). Thực tế cho thấy, từ trước đến nay chưa có một cuộc đình công nào do công đoàn đứng ra tổ chức, hầu hết các cuộc đình công trong nhiều năm qua là tự phát. Cần làm rõ nguyên nhân của tình trạng này là gì, từ phía người lao động, công đoàn, người sử dụng lao động hay do quy định bất cập của pháp luật để từ đó tìm ra giải pháp hữu hiệu...

THANH HÒA-QUỲNH HOA (TTXVN)

Chia sẻ bài viết