Truyện ngắn của: NGUYỄN KIM
Tôi sinh ra ở một xã cù lao sông Tiền và suốt tuổi thơ tôi trải qua trên vùng đất nghèo nàn, bình dị. Năm học lớp tư, tôi biết anh Dũng. Anh làm lính trong đồn Rạch Chanh. Khác với bọn lính thô lỗ, hay chọc gái sỗ sàng và bắt nạt trẻ con, anh Dũng dễ thân thiện hơn. Ba tôi vốn không ưa đám lính đồn chuyên đuổi gà, bắn chó, nhưng qua vài lần tiếp xúc với anh, thỉnh thoảng người còn pha ấm trà ngon gọi anh uống, cùng trò chuyện khá lâu mà không lần nào cho tôi được nghe. Thật sự tôi thích anh vì những ước muốn vặt vãnh mà người lớn ít quan tâm, ngược lại anh sẵn sàng giúp. Trong lúc ngồi gác, anh nhẩn nha trau chuốt cái ná thun đến bóng láng để làm món quà bất ngờ cho tôi. Trời nắng chang chang, cá bống kèo nổi nhóc mỏ ở các vũng nước ruộng thấy mê, anh kiên nhẫn dạy tôi cách bắt cá làm tụi bạn phục sát đất.
Một buổi trưa, nghe mấy tiếng súng nổ chát chúa từ hướng đồn, tôi hoảng vía chui tọt vào trảng-xê (hầm tránh đạn pháo) ngồi im thin thít. Ba tôi bình tĩnh nghe ngóng một lúc rồi lững thững ra ngoài. Chừng mười lăm phút sau trở về ngoắt tôi ra, lắc đầu ngán ngẩm:
- Bọn lính đồn thiếu mồi nhậu, bắn bầy vịt đẻ của ai đó lọt vô vòng rào. Mặc thiên hạ chửi rủa xỏ xiên.
Trong lúc đám lính chè chén say sưa, hát hò ỏm tỏi, anh Dũng không tham gia mà đi vòng lối sau vô vườn nhà tôi, rồi lẳng lặng ngồi tựa lưng gốc dừa, đăm chiêu. Nhìn đôi mắt rười rượi của anh, tôi buột miệng hỏi:
- Gia đình anh Dũng ở đâu vậy? Lâu nay không thấy anh về thăm?
Vuốt tóc tôi bằng bàn tay thô ráp, anh đăm đăm ngó theo ngọn khói đốt đồng, buồn buồn đáp:
- Ừ... quê anh ở tận Ba Chúc thuộc xứ Châu Đốc. Xa lắm, em chẳng biết đâu. Cha anh bị máy bay bắn chết năm anh mười bốn tuổi, còn mẹ với em gái hổng hiểu bây giờ lưu lạc tới đâu? Thôi, đừng nhắc chuyện ấy nữa...
Tôi cảm nhận được những lúc nhớ nhà hình như anh rất cần tâm sự, dù là với một đứa trẻ như tôi. Anh kể cho tôi nghe chuyện về vùng quê Ba Chúc với những cây thốt nốt tán lá sum suê, tuổi thọ hàng trăm năm cho quả ngon, cho đường ngọt. Anh nhắc tới lễ hội Ok-om-bok (người Việt gọi là lễ cúng trăng) vào đêm 14 tháng 10 âm lịch, cùng giàn hát Dù-kê vui nhộn, điệu múa Lâm-thôn trữ tình... trai gái giao duyên nên chồng nên vợ. Anh thường chấm dứt câu chuyện bằng câu nói quen thuộc tựa như để hỏi lại mình:
- Cảnh thanh bình quê anh, chừng nào mới gặp lại đây?
***
Mùa nắng, vấn đề nước sinh hoạt ở đất cù lao này rất gay go. Ghe bầu đổi nước từ Bình Đại qua giá cắt cổ, vậy mà chậm vài ba ngày là tôi phải đạp xe đạp chở nước tận giếng đình. Lượt đi thì dễ, chỉ việc treo cặp thùng thiếc sau xe rồi theo đường mòn đạp tà tà. Lượt về đẩy xe ghìm đường chậm rì rì và dù cẩn thận đậy lớp lá chuối dày bên trên, nước trong thùng vẫn sánh ra ngoài. Ngán nhất là qua cái ải kiểm soát của bọn bình định áo đen, nơi các cô gái làng e sợ, lánh xa bằng cách đi vòng lối nghĩa địa đầy lùm bụi, rắn rít. Bởi đối diện ma chết còn dễ chịu hơn gặp bầy quỷ sống. Trưa ấy, tôi xui tận mạng vì đụng đầu ngay Tư Rô - tên phó đoàn bình định, cùng một tay nữa đang say mèm, đi đứng nghiêng ngả. Tôi vội cho xe nép sát bụi lức ven đường rồi cúi gầm mặt nhìn đôi bàn chân vấy bẩn của mình, thầm mong cho tai qua nạn khỏi. Khi đi ngang tôi, Tư Rô quờ quạng vướng ghi-đông xe ngã chúi ra đất, kéo theo hai thùng nước đổ lênh láng. Hầm hừ đứng lên, móc khẩu súng ngắn lận lưng lên đạn đánh rốp. Tưởng hắn bắn tôi, nhưng không, hắn cho tôi hai tát nẩy đom đóm mắt rồi thúc tôi cùng xe về chốt của hắn. Đến nơi, nước mắt vòng quanh, tôi ấp úng xin được tha về nhà. Hắn quát nạt bắt tôi khoanh tay, quỳ gối cạnh rào thép gai, sau tấm bảng gỗ sơn hai chữ “Vì Dân” thật to. Leo lên võng nằm, Tư Rô ho khan mấy tiếng khê nồng mùi rượu, trợn cặp mắt trắng dã:
- Du kích xui mày ngăn đường để bắn tỉa tao hử? Chừng tao ngủ xong, mày ra giếng cộ đôi nước tao tắm mới được về. Quỳ đó! Cấm nhúc nhích... Trốn, tao bắn bỏ!
Nắng trưa gay gắt cùng nỗi lo lắng khiến tôi như lên cơn sốt. Dòng mồ hôi lăn từ cổ xuống lưng nhột nhạt, ngứa ngái làm tôi khó chịu, bức bối thêm. Vài đứa chăn trâu đứng xa xa ngó tôi thương hại, tuyệt không dám nói một lời. Tôi mong có đứa chạy cho ba tôi hay, may ra người “cúng thí” con gà, con vịt để chuộc tôi. Đang gầm mặt thút thít, tôi chợt giật mình nghe tiếng cãi vã, quát tháo. Anh Dũng đến tự lúc nào, đứng trước mặt tên phó đoàn, tay cầm khẩu súng dài, tay vung lên giận dữ:
- Tụi mày “xây dựng”, “vì dân” cái gì mà hiếp đáp một thằng bé? Có gan thì kéo vô rừng chà là đụng thử với du kích... Giờ mày tính sao với thằng em nuôi tao đây, Tư Rô?
Nhìn chăm chăm kẻ can thiệp như ước lượng sức vóc, tình thế, rồi liếc qua hai người lính súng xuống tay đứng ngoài rào, Tư Rô nuốt nước bọt bước lại gần tôi, rít qua kẽ răng:
- Đi cho khuất mắt tao... thằng ôn dịch!
Mở bi-đông nước rửa mặt cho tôi xong, bảo theo hai người lính kia về trước, anh Dũng khoác súng lên vai đẩy xe đạp ra giếng đình chở giúp tôi đôi nước...
Chuyện ấy cũng là một kỷ niệm mà tôi không thể quên được. Thời gian dần trôi, anh Dũng vẫn kín đáo lui tới nhà tôi, chừng mực và từ lúc nào không hay đã tạo được mối thiện cảm với ba tôi. Trong câu chuyện giữa hai người lớn, thỉnh thoảng tôi nghe anh thì thào những từ lạ lẫm, nào là “kẻ thù chung hai dân tộc”. “đế quốc”, “giải phóng thắng lợi”... mơ hồ giống chuyện... quốc sự, nên tôi không dám nói lại với bất cứ ai!
Cuối năm, anh Dũng đột ngột nhận lệnh rời đồn Rạch Chanh chuyển về đơn vị khác, nghe đâu mãi tận Kiên Giang. Ba lô gọn gàng, anh đứng bên rào siết tay ba tôi nói lời từ biệt. Tôi theo ra bến đò, vẫy chào cho tới khi cái bóng ngồi bó gối trên mui đò của anh khuất sau rặng dừa nước ở vàm sông Cửa Tiểu. Lần đầu tiên tôi biết nỗi buồn tiễn biệt một người thân...
***
Sau Tết Mậu Thân 1968, âm vang của trận đánh phá khám tỉnh lỵ giải thoát tù chính trị, cùng những hoạt động nở rộ phía bên kia khiến bọn lính đồn mới đổi về cùng đám áo đen không còn hống hách như trước nữa. Lần đi mua trà ở quán cô Hai đầu cầu, tôi tình cờ nghe đám lính kháo chuyện. Những điều nghe được khiến tôi bàng hoàng:
- Tụi mày biết thằng Dũng trước ở đại đội biệt lập đây không? Nó làm nội tuyến, lấy thông tin của phòng ba chi khu, làm thất bại biết bao kế hoạch hành quân, càn quét. Bên an ninh đánh hơi được, biết sắp lộ nên nó thoát ly luôn. Sau đó còn móc nối thêm hai thằng nữa...
- Nghe nói giờ nó cầm đầu du kích xã Bình Công, Bình Thành... Thằng đó gan lì lắm, dám chặn đánh cả xe chi khu, pháo kích nhà đèn... Nó thoắt ẩn thoắt hiện, động tịnh khó lường, đến tụi trinh sát Ó đỏ còn sợ...
- Đó là chuyện cũ... Qua lời khai một thằng chiêu hồi, tao biết nó đã gia nhập C.207 chính quy trên tỉnh rồi...
Tôi hồi hộp, phấn khích chạy nhanh về nhà kể lại chuyện vừa rồi cho ba nghe. Ba tôi cười khà khà, những nếp nhăn trên trán như giãn ra.
Thời cuộc biến động dồn dập, ba đưa tôi vào đất liền học trường tỉnh cho yên thân. Nhịp sống hối hả, khó khăn tựa đám mây mù cất sâu vào ký ức tôi những ngày thơ ấu. Có đêm tôi ngủ quên bên bàn học, mơ thấy anh Dũng rắn rỏi với mái tóc hơi xoăn, đôi mắt đen to, buồn buồn nhìn tôi như xa như gần. Tôi thảng thốt nhớ và lo cho anh nhiều!
***
...Miền Nam giải phóng, hòa cùng sự kiện lịch sử trọng đại này có những giọt nước mắt đoàn tụ, hụt hẫng, vui buồn lẫn lộn. Ba tôi cũng thấp thỏm trông ngóng, hỏi tin anh Dũng qua nhiều người quen, nhưng chẳng biết được thêm điều gì mới. Người hay nhắc đi nhắc lại câu:
- Thằng sống có tình có nghĩa, nhất định sẽ về đây thăm bà con. Ba chỉ e rằng...
Bỏ lửng câu nói, ba ngó mông lung hướng đồn Rạch Chanh giờ đây đã được san bằng, phủ lên màu xanh cây trái. Xóm làng từng bước đổi mới, trường học, trạm xá, chỗ họp chợ, bến đò... được xây dựng, chỉnh trang rốt đẹp, xứng đáng với thành quả lao động của mọi người. Mười lăm năm! Mười lăm năm quả là quá dài cho cuộc trùng phùng vô vọng. Năm 1990, trong lúc đợi chuyến phà đêm, tôi may mắn được gặp bác Năm, một nông dân cố cựu ngụ xã B.X. Bác kể cho tôi nghe trận đánh dữ dội tại vùng quê bác vào khoảng giữa năm 1974. Đó là trận chống càn bảo vệ cuộc họp Tỉnh ủy kéo dài suốt ba ngày đêm ở Rạch Rô. Bác Năm khá tường tận bởi nhà nằm trong khu vực giao tranh. Và tôi thật bất ngờ, đau xót khi nghe bác kể về cái chết của anh Dũng, người tiểu đội trưởng trinh sát mà gia đình bác rất thương mến. Rạng sáng ngày thứ tư, ta chuyển thương binh xong, tạm rút để bảo toàn lực lượng. Anh Dũng tình nguyện ở lại cùng ba chiến sĩ với quyết tâm cầm chân địch. Các anh đánh trả quyết liệt, đến trưa thì ba đồng đội hy sinh, anh Dũng trúng mảnh đạn cối, gãy xương đùi, bò đến mé rạch nằm mê man. Hai thằng lính kéo anh lên bờ. Tên chỉ huy nổi điên vì tổn thất quá lớn, nó lên đạn khẩu tiểu liên chĩa thẳng vào ngực anh, quát lạc giọng:
- Mày mở miệng xin hàng... tao cho sống!
Anh hé mắt, bình thản nhìn lên bầu trời trong xanh, thều thào:
- Đồ chó!
Một tràng tiếng nổ vang lên, ngực anh vỡ nát. Không khuất phục được sự kiên cường của đối phương tay không vũ khí, tên chỉ huy lồng lộn đe dọa không cho mọi người chôn xác anh. Nhưng ngay trong đêm ấy, người liệt sĩ được bà con bí mật chuyển đi an táng cạnh nền đình xã...
***
Qua nguồn tin cơ sở, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện xác minh cụ thể và làm thủ tục qui tập hài cốt anh Dũng về nghĩa trang liệt sĩ. Vậy là sau 16 năm lẻ loi, nay anh đã được an nghỉ trong ngôi nhà chung, ấm áp tình đồng đội. Mỗi năm hai lần, vào dịp 27 tháng 7 và Tết Nguyên đán, ba tôi và tôi dù bận việc đến mấy cũng gác lại để đi thăm mộ anh Dũng, thắp nén nhang, đặt cành hoa, cầu nguyện cho hương hồn anh thanh thản. Trong nghĩa trang, các hàng mộ san sát, tên tuổi có, vô danh có, đều dũng cảm hy sinh cho sự bình yên, thống nhất đất nước; tất cả vẫn sống mãi trong lòng dân tộc. Tôi còn chút ray rứt khôn nguôi không biết người thân, gia đình anh hiện lưu lạc nơi đâu?