21/11/2021 - 13:17

Vùng nước nổi 

Truyện ngắn: Hoàng Khánh Duy

 

Tôi trở lại cánh đồng đúng ngay mùa nước nổi. Ðường về vẫn như trong mường tượng của tôi. Thời gian trôi qua, nắng mưa và những chuyến đời rộn rã không làm tôi quên lời hứa năm nào. Cánh đồng, bờ đê, những dòng sông uốn khúc chảy dài và từng mùa nước nổi dệt trong tôi ký ức vui buồn về những ngày lênh đênh phiêu bạt.

Ngồi trên chiếc đò dọc xé sóng chạy băng băng trên dòng, gió đồng lồng lộng, nước sông dập dềnh, mắt tôi cay cay…

* * *

Ghe chúng tôi đi ngang qua cánh đồng. Buổi sáng nằm trong ghe, tôi ngửi được mùi nước sông theo gió lùa vào. Dòng sông phảng phất mùi đất bùn, tràm thơm, cánh đồng tháng bảy và phù sa đôi bờ.

Mỗi khi ngà ngà say, ba tôi lại kể chuyện năm xưa má sinh tôi trên chiếc ghe này, em Triết cũng vậy. Nhau rốn của chị em tôi đều được má thả vào lòng sông như một lời thề. Má nói:

- Chừng nào má với ba còn ở với nhau là chừng đó nhà mình còn đi ghe.

Có lúc tôi hỏi:

- Lên bờ sống cho đỡ cực, đi ghe mãi sao được, hả má?

Má tôi trầm ngâm một lúc rồi khe khẽ, giọng buồn:

- Thôi con, trên bờ không phải chỗ thuộc về gia đình mình.

Ðến năm tôi mười tám tuổi, ba mới kể ngày ấy chú tôi mượn men say đến nhà ông bà nội giành đất. Chú sợ bà nội sẽ cắt mảnh ruộng, liếp mía sau nhà cho ba má tôi dựng nhà canh tác. Mảnh đất đó phì nhiêu, mùa nào lúa cũng nặng oằn bông, mía thì to lại ngọt. Trong xóm nhỏ, không biết ai độc miệng châm dầu vào lửa xúi giục, chú tạt qua nhà nội mượn rượu "quậy banh tành" vào một chiều cuối năm. Bà nội giận quá khuỵu xuống, hàng xóm lấy ghe chở nội ra trạm y tế xã. Ba tôi nói lý chuyện hiếu đạo với chú. Chú liền chộp lấy con dao làm cỏ dưới sàn chém vào đùi ba tôi một nhát ròng ròng máu. Vết sẹo ấy ba mang theo suốt đời.

Sau đó, ba tôi sắm chiếc ghe mù u, má tôi xếp gọn nồi niêu chén bát với mớ đồ lặt vặt xuống ghe rồi đi. Bến sông xóm cũ, đêm sương, ba má tôi bắt đầu hành trình phiêu bạt trên dòng. Mảnh đất cũ lòa nhòa rồi khuất hẳn trong màn đêm hun hút...

Rồi một ngày ba má tôi về ngang xóm cũ, quyết định lên bờ thăm ông bà, bởi lẽ "Con người có tổ có tông". Trong bữa cơm chiều ấm cúng, lần đầu tiên trong cuộc đời chị em tôi được ăn cơm trong gian bếp nồng thơm mùi khói lam chiều. Tôi ngồi cạnh bên bà, em Triết tựa đầu vào lưng ông. Khi má tôi bưng mớ chén bát ra cầu ao ngồi rửa. Tôi nghe ông nội nói với ba tôi:

- Vợ chồng mày dọn lên đây dựng nhà mà sống đi con, đất nhà mình vẫn còn chỗ. Tụi nhỏ cũng lớn hết rồi!

Ba tôi trầm ngâm. Trong giây phút ấy, chị em tôi đều trông đợi cái gật đầu từ ba. Ðể đời bớt lênh đênh. Nhưng rồi ba từ chối, thở dài thắc thỏm:

- Vợ chồng con quen sống với sông và kiếm sống từ đó, có cực khổ nhưng tự tại, mong ba má hiểu chúng con...

Chị em tôi nằm với bà nội trọn một đêm, nghe bà kể chuyện cổ tích, ngâm Vân Tiên. Em Triết rúc đầu vào người bà, lim dim một lúc rồi ngủ khì. Gần sáng, ba bước vào buồng gọi chị em tôi thức dậy. Ba má từ giã ông bà nội để lui ghe cho kịp con nước lớn. Bình minh ló dạng, ông bà bùi ngùi tiễn chúng tôi xuống bến sông. Má tôi vừa nhổ sào, vừa nói vọng:

- Ba má ở lại khỏe nghen, vài tháng nữa vợ chồng con lại đưa con Chang, thằng Triết về đây thăm ba má.

Ba tôi nổ máy, chân vịt xoáy nước đẩy chiếc ghe từ từ rời khỏi bến quê.

* * *

Tháng bảy, con nước lớn từ thượng nguồn đổ về đồng bằng. Những cánh đồng phủ lên mình biển nước mênh mông, bốn bề trơ trọi. Ghe chúng tôi đi ngang qua vùng Ðồng Tháp Mười, nước ngập khiến tôi không phân biệt được đâu là bãi bờ, đâu là dòng sông, đâu là cánh đồng. Chiều đồng bằng, tiếng vịt chạy đồng từ chiếc ghe nào đó vọng lại buồn man mác. Tôi ngồi bó gối trên mui ghe, nhìn sóng nước. Ngoài trời mưa tí tách, hạt to, hạt nhỏ tan vào mặt nước. Cánh đồng vắng người, những ngôi nhà lúp xúp ẩn mình trong con nước. Hoàng hôn phủ trùm trên cánh đồng lai láng. Ba tôi neo ghe chỗ mô đất cao còn sót lại trong cơn lũ. Chiều im im văng vẳng tiếng cuốc vọng về từ đám lau sậy phía xa. Tôi nằm trong ghe chơi oẳn tù tì với thằng Triết, má tôi lụi cụi sau lái nhóm bếp nấu cơm. Bữa cơm trên cánh đồng nước nổi thật bình dị, thằng Triết ngồi bẻ bông súng chấm cá linh kho sệt ăn ngon lành. Ðời lênh đênh như gia đình chúng tôi đôi lúc cũng có cái để vui, để gói ghém ký ức mang theo trên hành trình sắp tới.

- Mưa lũ kiểu này chắc neo ghe cả tháng chứ đi tiếp sao được?

Má nói vậy. Ba tôi ậm ừ:

- Ðể nhắm vài bữa nữa coi sao.

Ðằng kia, mấy trái bình bát chín cuống rụng xuống nước. Ðêm nước nổi mênh mang. Tôi chợt nhớ hồi chiều tôi với em Triết lén ba lên gò đất cao cho đỡ buồn, đỡ nhớ. Tôi nói:

- Phải chi mình có cái gì để lại nơi đây, mai mốt có đi ngang qua cũng nhận ra chỗ này mình từng neo ghe, từng trốn ba lên bờ nhìn nước nổi.

Em Triết nghe vậy bước lên ghe lúi húi tìm vật gì đó, khi trở lại bờ đặt vào bàn tay của tôi cái hạt nho nhỏ màu đen.

- Hạt ô môi đó. Lần trước ngồi ăn bên bờ kinh ngon đáo để, em giữ lại hạt này đợi ngày lên bờ sống em sẽ gieo nó sau vườn, tới mùa ô môi tha hồ có trái ăn.

Ba tôi từng dặn: "Ðừng để lại bất cứ vật gì, đừng quyến luyến bất cứ một ai. Lỡ như ghe đi lại tiếc". Nhưng rồi chúng tôi quyết định để lại nơi đây một hạt mầm.

Tôi đâu biết đó là bữa cơm sum họp sau cùng của chúng tôi. Hạt giống trên gò đất cao giữa cánh đồng nước nổi cũng là bí mật sau cùng của tôi với em Triết. Ðêm ấy, giông to. Nước lũ ồ ạt chảy về đẩy chiếc ghe tôi đi băng băng, chao đảo. Má tôi hốt hoảng kêu ba bẻ lái để chiếc ghe không quay ngược chiều nước cuốn. Nhưng hình như chiếc ghe đã ra khỏi cánh đồng, gió lạnh hơn và tiếng mấy cành điên điển khô không còn xạc xào mỗi lúc quật vào nhau tan tác. Thằng Triết mếu máo vì sợ, tôi cũng thấy tim mình run run. Ba trấn an:

- Không sao, đừng sợ, lát nữa nước sẽ rút.

Nhưng nước không rút. Nước cứ liên tục quật mạnh vào thành ghe, lái ghe, chiếc ghe xoay tít mấy vòng. Tôi nép sát vào người má, tay bám chặt vào thành ghe. Trong cơn hoảng loạn, tôi thấy mình đang ngụp lặn giữa dòng, nước sông tràn vào mắt tôi, mũi tôi, nước đánh tơi tả mái tóc dài của tôi ran rát. Tôi vật vã trên dòng nước bao lâu không biết, mãi đến khi tỉnh dậy thì nắng đã lên cao, nước đã rút dần, còn tôi thì đang nằm trong căn nhà lá xập xệ. Bên cạnh tôi là má, má ngồi nhìn tôi mà nước mắt ròng ròng.

- Ba với em Triết đâu rồi, hả má?

Má khóc mà không trả lời tôi. Tôi nức nở, má ôm tôi. Hơi ấm của má không đủ sức làm nóng con tim đang lạnh, trống rỗng của tôi.

* * *

Ðến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ từng đường nét trên khuôn mặt của ba, của Triết. Mỗi khi má thấy nhớ em Triết và ba tôi đến như đứt từng đoạn ruột, tôi an ủi má mà lòng tôi cũng nhói như kim nhọn đâm vào: "Con tin ba và em vẫn còn sống, chờ ngày gặp má con mình". Tôi cứ nghĩ ngày mai là ngày đoàn tụ, sum vầy. Ngày mai có nắng...

Sau khi má đưa tôi về nhà ngoại tiếp tục cuộc sống mà không có ba và em Triết, tôi lớn lên thành chỗ dựa của má. Giữa cuộc mưu sinh, tôi vẫn để dành tiền và thời gian để theo dòng sông lần về ký ức xưa. Trong những chuyến đò dọc ngang, mỗi khi đi qua mấy chiếc ghe thương hồ, kẻ buôn bán, người chăn vịt chạy đồng... tôi thoáng thấy mình, gia đình mình tháng ngày trước.

Chiều nay, chiếc đò dọc tôi thuê dừng lại nơi xóm nhỏ giữa cánh đồng. Tôi bước lên bờ, theo lời chỉ dẫn, tôi băng qua con đường nhỏ đặc sệt bùn đất tìm đến căn nhà gỗ nhỏ bên cạnh gốc ô môi già gặp hai cha con vẫn thường bơi xuồng dọc dòng sông cứu người trong từng mùa nước lũ. Từ xa nhìn thấy cây ô môi cao lêu nghêu, thân cành vững chãi vươn lên bầu trời, tôi nghĩ về sự sống bất diệt trong mọi hoàn cảnh…

Chia sẻ bài viết