11/07/2015 - 16:00

Những ngôi sao khoa cử làm rạng danh nước Việt

Nguyễn Hữu Hiệp

Từ năm 1075 dưới triều vua Lý Nhân Tông, nước ta bắt đầu có các kỳ thi khoa cử nhằm tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Trải qua 845 năm, đến triều vua Khải Định năm 1919 mới chấm dứt. Đã có nhiều loại khoa thi khác nhau, ở mỗi triều đại lại có những đặc điểm khác nhau, nhưng điểm chung là các khoa thi đã để lại cho đời sau nhiều tên tuổi lớn, đặc biệt là những người đi sứ sang Trung Hoa khiến nước lớn nể phục.

 Các tân khoa được ban mũ, áo, hia. Ảnh tư liệu

Xưa, trong 3 khoa thi, gồm thi Hương (lấy Tú tài, Cử nhân, tổ chức tại các xứ, có tính khu vực), thi Hội (lấy Tiến sĩ, do Bộ Lễ trực tiếp trông coi nên gọi Lễ vi), và thi Đình (lấy Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp… do nhà vua chủ trì khảo thí tại sân triều đình), nước ta có 3.415 người đỗ Tiến sĩ, trong đó có 251 đỗ Tiến sĩ đệ nhất giáp gồm 199 Trạng nguyên, 69 Bảng nhãn, 69 Thám hoa. Tính chung cả tam giáp có đến 2.675 vị. Trong số ấy, có ít nhất 17 vị đỗ đầu cả 2 kỳ thi Hội (gọi là Hội nguyên hay Khôi nguyên) và thi Đình (gọi Đình nguyên). Trong đó có: 4 vị đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, Trạng nguyên là các ông: Nguyễn Xuân Chính (khoa Đinh Sửu, 1637), Lê Nại (khoa Ất Sửu, 1505), Nguyễn Thiến (khoa Nhâm Thìn, 1532) và Nguyễn Bỉnh Khiêm (khoa Ất Mùi, 1535). 6 vị đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, Thám hoa là các ông: Nguyễn Đăng Hạo (khoa Bính Tuất, 1646), Vũ Công Tể (khoa Mậu Tuất, 1718), Đặng Thi Thố (khoa Kỷ Mùi, 1559), Nguyễn Giáo Phượng (khoa Bính Tuất, 1586), Giang Văn Minh (khoa Mậu Thìn, 1628) và Nguyễn Minh Triết, tức Nguyễn Thọ Xuân (khoa Tân Mùi, 1631). 5 vị đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, Hoàng giáp là các ông: Phí Văn Thuật (khoa Canh Thìn, 1640), Nguyễn Quyền (khoa Đinh Sửu, 1697), Hồ Sĩ Đống (khoa Nhâm Thìn, 1772), Bùi Dương Lịch (khoa Đinh Mùi, 1787 – chế khoa) và Nguyễn Văn Giai (khoa Canh Thìn, 1580). 1 vị đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, Tiến sĩ là ông Nguyễn Công Trạc (khoa Giáp Tuất, 1694). 1 vị đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, đồng Tiến sĩ là ông Nguyễn Đình Trụ (khoa Bính Thân, 1656).

Có những vị hễ thi thì đậu và hết sức đặc biệt là đều đậu đầu bảng của cả 3 khoa Hương, Hội và Đình. Đó là ông: Đào Sư Tích, đỗ Đình nguyên Hoàng giáp (khoa Nhâm Dần, 1602); Phạm Đôn Lễ, đỗ Đình nguyên Trạng nguyên (khoa Tân Sửu, 1481); Vũ Dương, đỗ Đình Nguyên Trạng nguyên (khoa Quý Sửu, 1493); Nguyễn Đăng, đỗ Đình nguyên Hoàng giáp (khoa Nhâm Dần, 1602); Lê Quý Đôn, đỗ Đình nguyên Bảng nhãn (khoa Nhâm Thân, 1752); Ngô Thì Sĩ, đỗ Đình nguyên Bảng nhãn (khoa Bính Tuất, 1766 – con của Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm); Trần Bích San, đỗ Đình nguyên (khoa Ất Sửu, 1865 – con của Phó bảng Doãn Đạt); Nguyễn Khuyến, đỗ Đình nguyên Hoàng giáp (khoa Tân Mùi, 1871 – có con đậu Phó bảng); Vũ Phạm Hàm, đỗ Đình nguyên (khoa Nhâm Thìn, 1891).

Và hơn hết là ông Nguyễn Hiền, đỗ Đình nguyên Trạng nguyên lúc mới 13 tuổi, dẫn đầu 48 Tiến sĩ trong khoa Đại tỷ năm Đinh Mùi, 1247. Nhà sử học đầu tiên của nước ta là ông Lê Văn Hưu đậu Bảng nhãn năm ông mới 18 tuổi.

Cá biệt, những con người xuất sắc trong khoa cử ngày trước có Trạng nguyên Nguyễn Trực (đỗ khoa Nhâm Tuất, 1442 – khoa nầy có 3 vị đỗ Tiến sĩ cập đệ, 7 vị đỗ Tiến sĩ xuất thân và 23 vị đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Đây là khoa thi đầu tiên các Tiến sĩ được vua Lê Thái Tông cho khắc tên vào bia dựng ở văn miếu để "phấn chấn lòng người văn học"). Nguyễn Trực nhân đi sứ sang Trung Quốc, gặp khoa, nghĩ rằng đây là dịp may hiếm có để thử so tài với sĩ nhân Trung Hoa, bèn tâu lên, được vua Tàu đặc cách cho thi. Kết quả thật bất ngờ, ông đã đỗ ngay Trạng nguyên, trở thành Trạng nguyên hai nước! Không chỉ thế, cũng trong khoa thi này, Bảng nhãn Trịnh Thiết Tường người cùng đi trong sứ đoàn, đỗ sát kế đó, vua Tàu cũng phong ngay "Lưỡng quốc Bảng nhãn".

Lại một trường hợp hi hữu nữa, đó là ông Phan Cảnh (cũng gọi Phan Kính) sau khi đỗ Thám Hoa đầu khoa Quý Hợi, 1743 (khoa nầy không lấy Trạng Nguyên và Bảng Nhãn), ông được bổ làm Kinh lược sứ ở vùng biên giới Việt Trung (Tuyên Quang – Vân Nam), có làm quen với viên Tham phủ họ Hoa (cũng đỗ Thám hoa năm Quý Hợi triều nhà Thanh). Hai người có làm những vần thơ xướng họa thể hiện mối tình bang giao sâu đậm giữa văn nhân hai nước. Vua Càn Long nghe biết, cảm phục văn tài đức độ của Phan Cảnh nên đặc tứ gia phong "Lưỡng quốc Đình nguyên Thám hoa" và tặng ông chiếc áo cẩm bào.

Những câu chuyện trên khẳng định tư chất của người Việt Nam, làm cho láng giềng phải kiêng nể, củng cố quan hệ bình đẳng trong bang giao.

 Các tân khoa được Tổng đốc thay mặt nhà vua ban yến. (Các khoa thi của triều Nguyễn được tổ chức cho đến năm 1919 thì chấm dứt). Ảnh tư liệu

Một học giả Trung Hoa, ông Châu Sán, từng chép trong tập "Sứ giao kỷ sự" về tình trạng trường thi của nước ta: "Nước ấy thi cử, không có nhà cho học sinh, chỉ lấy trúc làm lều che, khi làm văn, phục xuống đất mà viết". Đọc, ta không thể không đau lòng cho cái nghèo, cái thiếu tất yếu của nước nhà cứ liên miên ngập chìm trong can qua khói lửa! Nhưng ta không khỏi tự hào khi bắt gặp đoạn văn với những nhận xét khách quan sau đây của Chử Giá Hiên (cũng là nhà học giả Trung Hoa) trong sách "Kiên biều dư tập": "Nước An Nam cách nước Trung Quốc mấy nghìn dặm. Bề ngoài tuy có tiếng là chịu ảnh hưởng Trung Quốc, nhưng sự thực thì tự xưng Hoàng đế một nước, tự đặt niên hiệu riêng, pháp luật riêng, rồi chia nước ra làm mấy đạo, cũng như các tỉnh của Trung Quốc vậy. Trong các đạo, có một đạo gọi là An Bang đạo, người ta thấy có tập "An Bang hương thí lục" chép rằng: Khoa thi năm Hồng Đức thứ hai (1471), kỳ đệ nhất, thi 4 bài kinh nghĩa, hỏi về Ngũ kinh. Kỳ đệ nhị thi một bài chiếu. Kỳ đệ tam thi một bài thơ và một bài phú. Kỳ đệ tứ thi một bài văn sách cực dài". Xem thế thì phép kén chọn nhân tài của nước ấy, so với Trung Quốc có phần tường tận hơn. Mà những câu đối liên ở trong bài biểu, bài phú, văn thi của họ đều rất hay" (Ghi lại trong "Kiến văn tiểu lục" – Lê Quý Đôn).

N.H.H.

Chia sẻ bài viết