Truyện ngắn: Tôn Thất Lang
Căn nhà nhỏ tồi tàn chỉ một mình ông lão đơn độc sinh sống, dáng người tiều tụy. Nhìn lão nghĩ ngay là người nghèo. Lão ăn uống kham khổ, áo quần mặc trên người đã sờn cũ, chỉ một, hai bộ để thay đổi. Người ta không hề thấy lão bước lên xe, gần hay xa đều đi bộ, khát nước thì ghé vào nhà người ta xin hay vào máy nước công cộng uống cho qua cơn. Theo quan niệm và kinh nghiệm của lão thì ở trên đời này không có kẻ nào giúp cho mình, mà phải tự thương mình. Bởi vậy, lão rất sợ bệnh tật và đói khát. Bản chất chắt chiu dành dụm, luôn bóp mồm, bóp miệng chỉ ăn mà sống, vì thế lão trở thành con người hà tiện gần như keo kiệt. Chứ thật ra trong người lão, giữ một gia tài rất lớn mà nhiều người mơ ước đó là một số vàng đến mười lăm lượng. Đi đâu, sống chết số vàng trên cũng là vật bất ly thân.
Nếp sống đơn độc đã dạy lão không dám tin tưởng vào ai, chẳng giao thiệp người chung quanh, trái lại cũng chẳng ai đếm xỉa, đoái hoài tới một lão già mà họ nghĩ là khố rách áo ôm.
Hồi đó, vợ còn chung sống thì lão chẳng lo gì đời sống hằng ngày, hơn nữa hai vợ chồng chưa có đứa con nào. Thế rồi, một ngày đau đớn nhất trong cuộc đời lão, tình cờ lão bắt gặp quả tang vợ lão ngoại tình cùng người đàn ông hàng xóm, lão đã đánh đuổi, bà ta bỏ đi biệt dạng. Còn lão chán cảnh đàn bà lòng dạ đổi thay nên ở vậy từ lúc ba mươi tuổi cho đến bây giờ tuổi đã sáu lăm. Riêng về gia đình lão, sau hồi loạn lạc mỗi người chạy tứ tán nên không còn ai. Lão nhớ mơ hồ lúc mười tuổi, lão đã thất lạc cha mẹ cùng em trai mới hai tuổi, để lão một thân một mình bươn chải sinh sống.
Trong người lão giữ số vàng quá lớn so với người nghèo, vàng càng ngày càng lên giá nên lúc nào cũng phập phồng lo sợ bất trắc xảy ra. Vậy mà những ngày mới đây, lão càng lo sợ hơn khi mỗi lần ra chợ lão bắt gặp một trung niên theo dõi.
Gã ta cũng trên dưới năm mươi tuổi, khuôn mặt không bình thường, con mắt bên trái xếch ngược, chiếc miệng méo do di chứng của bệnh tai biến, mỗi lần gã cười lộ hàm răng trắng càng làm cho lão hãi sợ hơn.
Lão để ý năm buổi sáng liền, không sáng nào là gã ta rời xa lão, cho đến khi bước vào nhà gã ta còn tiếc nuối, lởn vởn trước nhà không chịu đi mà lại tấp vào quán cà phê phía bên kia đường ngồi uống nước nhìn qua nhà lão mấy giờ liền mới chịu ra về. Nhiều lúc lão nhìn lén qua lổ vách thấy gã ta nhướng cặp mắt xếch trừng trừng nhìn vào nhà lão chẳng khác gì con cáo đang rình mồi. Những lúc lão đi chợ, gã ta cũng lẽo đẽo theo sau, vào nhà lão không còn dám đóng cửa sợ gã nghi ngờ. Thỉnh thoảng, liếc nhanh để xem sắc mặt của gã, chẳng may bốn mắt chạm vào nhau, lão cảm thấy tay chân rụng rời, bủn rủn. Rồi lão tự hỏi lòng: "Chẳng lẽ nó biết trong người ta có mang mười mấy lượng vàng, nên nó đang tìm cách thủ tiêu để chiếm đoạt tiêu xài". Nỗi lo sợ ám ảnh từng giờ, từng phút luôn cả trong bữa ăn, giấc ngủ, nhưng lão không có bằng cớ nào để đi thưa hay nhờ ai bảo vệ, đi thưa trình người ta biết mình có vàng rồi rùm beng càng nguy hiểm cho tính mạng hơn.
Tính đa nghi làm lão mất ăn mất ngủ liên tiếp vậy mà gã kia nào có buông tha. Vừa mở cửa đi ra chợ thì gã ở đâu đã lù lù ở bên cạnh. Cặp mắt xếch của gã nhìn lão thật lạ lùng, phải chi còn trai trẻ thì lão đã dằn mặt gã bài học thế nào là lễ độ là lịch sự. Đằng nầy, lão vừa già cả lại ốm yếu, bệnh tật nên càng lo sợ hơn
lão nghĩ, chắc chắn là hắn đang có một âm mưu đen tối gì đây. Đã vậy mỗi lần lão vào nhà là gã ta tấp vào quán nước ngồi lấy giấy bút hý hoáy khắc họa. Bà chủ quán cho hay nó vẽ chân dung lão làm cho lão lo sợ cuống cuồng hơn, lão liên nghĩ đến chuyện làm bùa phép trù ếm gì đây.
* * *
Qua mấy đêm thức trắng, đêm nay lão lên cơn sốt, bệnh tim cũ tái phát, nhịp đập loạn xạ, thân nhiệt bốc cao, đầu óc nặng trịch như có ai đè. Rồi cơn lạnh len lõi vào cơ thể lão khiến tay chân run rẩy. Lão khổ sở ngồi dậy bước những bước nặng nhọc đi tìm mấy viên thuốc cảm để uống, xong lão cố lê lại giường nằm nhắm mắt ngủ mong quên khuôn mặt ghê sợ của gã ta, rồi cơn sốt từ từ lên cao làm lão thiếp đi. Bỗng tiếng la mắng thật lớn ở nhà bên cạnh khiến ông giật mình ngồi bật dậy, ông liền sờ tay vào chiếc đãy cột thắt lưng, số vàng vẫn còn y nguyên, nặng trịch.
Sau một hồi thở mệt, lão quyết định hành động như đã dự tính, nhất định phải chôn cất số vàng nơi nào bí mật. Lão lấy cái xà beng, thổi tắt đèn mò mẫm từng bước đi ra sau nhà ngồi xuống, dùng xà beng đào sâu một lỗ, đào mệt lại ngồi nghỉ thở hổn hển, khỏe lại tiếp tục đào. Hơn nửa giờ mới đào được lỗ sâu chừng bốn tất. Tay lão run run mở kho tàng cả một đời chắt chiu dành dụm cho xuống lỗ và lấp đất, sau đó lấy cỏ che lại như cũ, lão trở vào nhà lên giường nằm. Cơn sốt lại cao khiến cho lão lịm dần.
Trong cơn mê, lão thấy gã mắt xếch cùng hai đồng bọn bắt lão trói lại bỏ vào bao bố rồi kéo bừa một cách tàn nhẫn như kéo đồ vật. Lão van xin : "lạy ông tha cho tôi, tôi già cả nghèo khổ lại đang bệnh!".
- Không tha gì cả, ông mà nghèo hả? vàng đâu?
- Tôi làm gì có vàng
- Còn chối quanh hả! Ông không chỉ nơi cất giấu thì mạng ông coi như đứt đời.
- Lạy ông! tôi không có!
Hai gã kéo lê kéo lết ông vào căn nhà tối om. Chỉ tay vào mặt ông lão:
- Ông già ốm yếu, ta không cần đánh ông làm gì. Nhưng nếu không ngoan ngoãn đưa số vàng ông biết tay ta.
Tên mắt xếch trừng mắt nhảy vào, hai tay như hai gọng kềm siết chặt cổ lão. Lão ứ ớ muốn nói mà không nói được.
* * *
Trời sáng hẳn, căn nhà lá nhỏ bé của lão rất đông người xúm lại. Họ là người hàng xóm, nghe tiếng la hét thất thanh của lão lúc hừng sáng, tưởng có kẻ đến nhà cướp của giết người. Sự thật thì nỗi lo sợ ám ảnh rồi nhập tâm, trong lúc cơn sốt quá cao làm lão mê sảng. Có người thì thầm:
- Tội nghiệp cho ông già sống cô quạnh.
Lúc đó, gã mắt xếch cũng rẽ đám đông bước vào, trên tay cầm chai dầu nóng định thoa bóp, ủ ấm cho lão. Nhưng lão nhìn thấy, đôi mắt thất thần lão không chịu cho thoa dầu mà hét lên:
- Lạy ông, tôi không có gì.
Hắn lắc đầu không nói. Ông lão lại van xin
- Xin ông tha cho tôi, cho tôi sống yên ổn.
Mọi người ngạc nhiên, nghi ngờ gã này làm điều bất chính với ông già cô độc. Người ta, cầm tay hắn hỏi cho ra lẽ. Hắn ú ớ giằng tay ra, lúc đó mọi người mới biết nó là thằng "câm". Hắn ra hiệu xin miếng giấy rồi lấy bút ngồi xuống viết: - Tôi làm nghề thợ vẽ, bị tai biến nên không nói được. Tôi xin nói rõ lý do mấy ngày qua tôi theo ông lão này
Hắn vừa viết thì có người đứng đó đọc lớn cho bà con nghe. Hắn viết tiếp: "
Trước kia tôi có một người anh ruột, lúc đó tôi hai tuổi, còn anh tôi mười tuổi. Thời loạn lạc cùng cha mẹ chạy tản cư rồi thất lạc nhau. Cha mẹ tôi qua đời mà không còn ảnh để thờ. Bỗng cách đây mười ngày, không hiểu ông trời đẩy đưa tôi gặp ông đây, nhìn thấy ông như thấy cha tôi sống lại vì ông giống cha tôi như tạc. Tôi có ý định họa bức ảnh cha tôi để thờ. Thế là ngày ngày tôi theo ông, nhận xét gương mặt về nhà tưởng tượng vẽ ra cho giống. Chỉ có vậy thôi".
Người đứng đọc liền hỏi: - Quê anh ở miền Trung chứ ở làng nào ?
Anh lại viết: " ở làng An Ninh Hạ"
Ông lão giật mình nhổm dậy nhờ người đứng đó hỏi giúp xem gã có biết tên cha, tên mẹ không?
Gã liền viết: - cha tôi là Năm Cự còn mẹ là Bích Đào.
Như có sức mạnh vô hình, lão già liền đứng dậy ôm chầm lấy gã:
- Trời ơi ! Thế ra đây là Thân! Em ruột tôi.
Nhìn được thằng em sau 50 năm xa cách ông già khóc ròng, xúc động quá mạnh, bệnh tim cũ trở nên nguy kịch, nhịp đập liên hồi rồi ngắt quãng, người lão từ từ tím tái rồi ngất lịm trên tay người em ruột mới vừa tìm được.
* * *
Qua mấy ngày nằm điều trị ở bệnh viện- Ông Mùi " tên lão" từ từ khỏe ra, da mặt đã hồng lên không còn tím tái, hai anh em sống cùng nhau qua những ngày ở bệnh viện, tình yêu thương ruột thịt như thấm mềm cơ thể.
Hôm nay, họ ra viện, Thân đưa anh trở về căn nhà của anh.
Căn nhà được sửa lại kín đáo tươm tất, trên bàn thờ có hình ảnh người cha của hai anh em. Cuộc sống ông lão không còn sống cô độc mà hai anh em cùng nương tựa, cùng nhau chia sẻ vui buồn.