09/10/2008 - 08:17

Tác động do biến đổi khí hậu ở ĐBSCL

Giải pháp nào ứng phó và thích nghi ?

Cuối năm 2007, Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc đã xác định: Việt Nam là 1 trong 5 vùng bị tác hại của biến đổi khí hậu (BĐKH) nặng nề nhất thế giới. ĐBSCL là vùng đất thấp ven biển Đông của Việt Nam nên sẽ là khu vực bị tác hại nặng nề nhất do BĐKH. Giải pháp nào để ứng phó và thích nghi với những BĐKH trong thời gian tới? Đó là vấn đề trọng tâm được đặt ra tại Hội thảo “Tác động của BĐKH đối với ĐBSCL” vừa diễn ra tại TP Cần Thơ đầu tháng 10-2008.

Tác động ngày một lớn

Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất trên toàn cầu khi mực nước biển dâng cao do tác động của BĐKH. Trên 12% bờ biển của Việt Nam sẽ bị ngập sâu dưới mực nước biển 1 mét. ĐBSCL và đồng bằng sông Hồng là những vùng trũng nên bị ảnh hưởng nhiều nhất khi xảy ra ngập lụt, xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết xấu. Theo dự đoán của Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), các tác động trên gây mất mát khoảng 17 tỉ đồng mỗi năm và khiến khoảng 17 triệu người không có nhà. Còn Văn phòng quản lý điều tra tài nguyên biển và môi trường (thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường) dự báo: mực nước biển ở Việt Nam sẽ dâng cao từ 3- 15 cm vào năm 2010, dâng từ 15 - 90 cm vào năm 2070. Các vùng ảnh hưởng là Cà Mau, Kiên Giang, Bà Rịa- Vũng Tàu, Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình.

Trước đây, ĐBSCL ít bị bão. Thế nhưng, năm 1997 cơn bão Linda đã đi qua khu vực này và năm 2006, đuôi bão Durion quét qua, gây thiệt hại nặng nề về người và của. Mức độ tàn phá của những cơn bão kiểu như bão Durion gây ra ở ĐBSCL sẽ còn lớn và khốc liệt hơn nhiều nếu mực nước biển dâng lên cao hơn so với hiện nay. Tiến sĩ Nguyễn Hữu Chiếm, cán bộ Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên, Trường Đại học Cần Thơ, nhấn mạnh: “ĐBSCL đang chịu nhiều ảnh hưởng do BĐKH toàn cầu. Đất đai bị bạc màu, đa dạng sinh học giảm mạnh. Diện tích đất bị xâm nhập mặn, đất bị khô hạn, nhiễm phèn ngày càng tăng. Hiện nay, có khoảng 2,1 triệu ha đất bị nhiễm mặn và 1,6 triệu ha đất nhiễm phèn, khô hạn. Nhiệt độ không khí tăng cao và hạn hán bất thường, lũ lụt không theo qui luật, nhiều dịch bệnh mới hình thành...”.

Những tác động của BĐKH khiến chế độ thủy văn thay đổi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân. Trong ảnh: Đợt triều cường chiều 26-10-2007 làm nhiều tuyến đường ở TP Cần Thơ ngập lụt. Ảnh: TRUNG DÂN 

Theo ông Phạm Đình Đôn, Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường khu vực Tây Nam bộ, trong vài chục năm tới khi nước biển dâng cao, ĐBSCL sẽ phải đối mặt với tình trạng xâm nhập mặn và tình trạng ngập lũ hạ lưu sông Mê Công qui mô lớn. ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất nước và có thế mạnh về nuôi trồng thủy sản nên 2 lĩnh vực này sẽ chịu tác động mạnh nhất khi quá trình xâm nhập mặn làm thay đổi môi trường đất và nguồn nước. Hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ chịu tác động xấu khi chế độ nước ngập sâu bị thay đổi do nước biển dâng cao. Quá trình xâm nhập mặn ở mức độ cao có thể hủy diệt thảm thực vật và tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng tràm ở Cà Mau, Kiên Giang...

Trong khi đó, Việt Nam chưa có chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với BĐKH. Các địa phương cũng lúng túng trước vấn đề này vì thiếu những hướng dẫn để xây dựng kế hoạch ứng phó cụ thể. Việc quan trắc, sử dụng và chia sẻ các thông tin, dữ liệu liên quan đến khí tượng thủy văn, môi trường... để dự báo tác động của BĐKH còn nhiều bất cập. Mặt khác, theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ TP Hồ Chí Minh đến mũi Cà Mau có 243,6 km đê biển chưa đáp ứng yêu cầu thiết kế, 238 mặt đê chưa được cứng hóa, đa số tuyến đê chưa được khép kín, hầu hết các cống bị hư hỏng trầm trọng... Trong tình hình đó, nếu nước biển dâng cao, an ninh lương thực quốc gia sẽ bị đe dọa và đời sống nông dân nghèo trong khu vực sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Ứng phó và thích nghi...

Tại hội thảo “Tác động của BĐKH đối với ĐBSCL”, các nhà khoa học đã đề xuất giải pháp ứng phó và thích nghi với tác động của BĐKH ở ĐBSCL.

Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trân, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, khẳng định: “Ứng phó với mực nước biển dâng là một nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu về nhiều mặt: kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng... chẳng những của ĐBSCL mà còn của cả nước. Các địa phương phải tranh thủ điều tra, nghiên cứu trên từng địa bàn bị đe dọa để chuẩn bị phương án ứng phó tốt nhất”. Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trân gợi ý các nhiệm vụ cần triển khai như: nâng cao nhận thức của người dân về ứng phó với biến đổi khí hậu; xác định và tiến hành sớm những nội dung nghiên cứu cần thiết; Nhà nước cần chú trọng xây dựng cơ sở dữ liệu, đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các đề tài khoa học... Theo Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Đức Ngữ, Giám đốc Trung tâm Khí tượng Thủy văn và Môi trường, để giảm nhẹ khả năng bị tổn hại do BĐKH gây ra, cần có sự điều chỉnh ở các hoạt động kinh tế, xã hội... Các hoạt động ứng phó với BĐKH phải được triển khai ngay từ bây giờ và phải được lồng ghép với kế hoạch của các ngành, lĩnh vực, địa phương...

Theo báo cáo của Tổ chức Liên Chính phủ về BĐKH công bố vào tháng 2-2007, sự nóng lên toàn cầu của hệ thống khí hậu hiện nay là rất rõ ràng và chưa từng có: - Nhiệt độ trái đất trong 100 năm (1906-2005) tăng lên 0,740 C - Nhiệt độ trung bình ở Bắc cực đã tăng với tỷ lệ 1,50 C/100 năm.- Nhiệt độ trung bình ở đỉnh lớp băng vĩnh cửu ở Bắc bán cầu đã tăng 30 C kể từ năm 1980… Nhiệt độ tăng khiến băng, tuyết tan chảy trên phạm vi rộng lớn làm nước biển dâng lên. Trong 100 năm gần đây, mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng lên 0,31m.

Các nhà khoa học cũng đề xuất một số giải pháp thủy lợi khả thi như: làm đê bao kết hợp hệ thống cống và trạm bơm ở các vùng ven biển để tránh ngập lụt; xây dựng hồ chứa nước ngọt ngay tại ĐBSCL trong các vùng ngập hay bán ngập để trữ nước, tránh tình trạng thiếu nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất; ứng dụng công nghệ vật liệu mới vào xây dựng các công trình để giảm chi phí... Ngoài ra, những hành động đơn giản cũng sẽ góp phần giảm nhẹ tác động của BĐKH. Thạc sĩ Nguyễn Thị Nghiệm, Trưởng phòng Tổng hợp ĐTM (Báo cáo đánh giá tác động môi trường), Chi cục bảo vệ Môi trường tỉnh Tiền Giang, chia sẻ: “Tỉnh Tiền Giang đã nâng cao nhận thức và thúc đẩy hành động của cộng đồng bằng cách giáo dục, tuyên truyền bảo vệ môi trường trong học đường, trong cộng đồng; tổ chức tập huấn, tuyên truyền, phát tờ rơi liên quan đến BĐKH. Qua đó, một bộ phận nhân dân đã có sự thay đổi rõ rệt trong hành vi, lối sống. Nhiều người sử dụng xe đạp, xe buýt thay vì sử dụng xe gắn máy; sử dụng bóng đèn ít tiêu hao điện năng; thêm nhiều hộ chăn nuôi xây dựng hầm biogas để tự sản xuất gas đun nấu và phát điện trong gia đình; một số hộ dùng bình nước nóng năng lượng mặt trời; việc trồng hàng rào cây xanh, hoa, kiểng ở gia đình và nơi công cộng gia tăng...”.

Để giảm nhẹ những hậu quả do BĐKH mang tới, các cấp chính quyền cần có những động thái mạnh mẽ hơn: xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia; hướng dẫn cụ thể cho các ngành, các địa phương chủ động xây dựng chương trình phù hợp; thiết lập cơ quan liên tỉnh của ĐBSCL để phối hợp xây dựng chương trình ứng phó và hành động có hiệu quả không chỉ ở cấp địa phương mà trong toàn vùng... Bên cạnh trách nhiệm và hành động của các nhà quản lý, nhà khoa học, mỗi người dân ở địa phương cũng cần có ý thức và hành động thiết thực để góp phần giảm nhẹ các tác động của BĐKH.

LỆ THU

Chia sẻ bài viết