Sáng 2-12-2025, tiếp tục Chương trình làm việc tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã tiến hành thảo luận tại Hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035. Các vị đại biểu Quốc hội thuộc Đoàn đại biểu Quốc hội TP Cần Thơ, gồm: bà Tô Ái Vang - Phó Trưởng đoàn chuyên trách, bà Lê Thị Thanh Lam - Phó Trưởng đoàn chuyên trách và ông Đào Chí Nghĩa - Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội TP Cần Thơ tham gia đóng góp một số ý kiến.
Về các mục tiêu cụ thể và xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia
Tại điểm b khoản 1 Điều 1, quy định 10 mục tiêu cụ thể. Đại biểu Tô Ái Vang kiến nghị, xem xét bổ sung thêm 2 chỉ tiêu, đó là: tăng thời gian sống khỏe mạnh ở nam trung niên lên 3 năm đến 2030 và ít nhất 5 năm đến năm 2035; giảm tỷ lệ tử vong do bệnh không lây nhiễm ở nam giới xuống 30% đến 2030 và 50% đến 2035.

Đại biểu Tô Ái Vang phát biểu ý kiến thảo luận tại Hội trường.
Tại điểm a khoản 2 Điều 1, đại biểu kiến nghị bổ sung đối tượng: “Chăm sóc sức khỏe nam giới chuyên biệt” giúp giải quyết các thách thức về sức khỏe mang tính đặc thù, nâng cao hiệu quả phòng bệnh và chất lượng cuộc sống cho nam giới. Hiện nay, ở một số nước như Australia hay là Anh đã ban hành chiến lược dành riêng cho nam giới với chương trình can thiệp mục tiêu, giúp tăng khả năng tiếp cận và thay đổi hành vi của xã hội nói chung và ngay cả nam giới nói riêng.
Tại điểm a, khoản 5, Điều 1 quy định về xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia, gồm 5 dự án. Đại biểu kiến nghị, xem xét bổ sung 1 dự án về “Chiến lược sức khỏe nam giới”, với mục tiêu can thiệp hành vi truyền thông giới, dịch vụ thân thiện,… vì vào tuổi 70 được xem là giai đoạn giữa của người cao tuổi, còn được gọi là trung thọ, nam giới sẽ có nhiều biến đổi về sức khỏe và cuộc sống. Khi đó gia đình và xã hội sẽ thiếu đi trụ cột, thiếu sự cân bằng về giới, thiếu sự phát triển bền vững của xã hội vào tuổi trung thọ. Và đây có thể là nguyên nhân dẫn đến sự cô đơn, bất bình đẳng cho phụ nữ ở tuổi xế chiều.
Tại khoản 3, Điều 1 quy định về kinh phí thực hiện Chương trình, tổng số vốn giai đoạn 2026-2035 của Chương trình tối thiểu là 88.635 tỉ đồng. Trong đó, tổng ngân sách Trung ương chiếm khoảng 77%; tổng vốn ngân sách địa phương chiếm khoảng 22%; vốn huy động hợp pháp khác chiếm khoảng 0,7%. Việc phân bổ nguồn vốn cho Chương trình mục tiêu Quốc gia này, theo đại biểu là hợp lý về mặt nguyên tắc và cơ cấu, hướng tới mục tiêu xây dựng một Việt Nam khỏe mạnh, thịnh vượng. Tuy nhiên, mặc dù tỷ lệ vốn đối ứng của ngân sách địa phương chỉ khoảng 22%, nhưng thực tế sẽ gặp phải những thách thức, nhất là các địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi phụ thuộc nhiều vào ngân sách Trung ương bổ sung. Đặc biệt là những địa phương vừa chịu nhiều sự tổn thất từ thiên tai, bão lũ, sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc sắp xếp vốn đối ứng.
Vì thế, đại biểu kiến nghị đến cơ quan soạn thảo nội dung sau: (1) Cần có các cơ chế, chính sách linh hoạt về tỷ lệ vốn đối ứng phù hợp cho từng vùng, miền. (2) Cho phép địa phương chủ động phân bổ kinh phí ưu tiên cho công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng cấp bách tại địa phương mình, khi có xảy ra dịch bệnh trong khuôn khổ mục tiêu chung của Chương trình. (3) Cần có các quy định đặc thù, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cho phép chỉ định thầu hoặc mua sắm rút gọn để đảm bảo kịp thời vật tư y tế, thuốc men phục vụ người dân.
Về việc phân bổ các nguồn lực đầu tư
Đại biểu Lê Thị Thanh Lam đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung nguồn lực đầu tư công về cơ sở vật chất để đáp ứng việc thực hiện và thể chế hóa đầy đủ các Nghị quyết, Kết luận của trung ương, Bộ Chính trị về công tác dân số và phát triển, đặc biệt đầu tư cho sàng lọc trước sinh, sàng lọc sơ sinh để nâng cao chất lượng dân số. (1) Tại Tiểu dự án 3 “Nâng cao chất lượng dân số góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” là 4.932 tỉ đồng, hoàn toàn kinh phí thường xuyên, chiếm 65,77% tổng nguồn vốn dự án 3 và 7,25% tổng nguồn vốn của Chương trình. (2) Tại Tiểu dự án 4 “Thích ứng với già hóa dân số và dân số già, đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe người cao tuổi” là 214 tỉ đồng hoàn toàn kinh phí thường xuyên. Nội dung đầu tư xây dựng bệnh viện lão khoa hoặc bệnh viện đa khoa có chuyên khoa lão khoa. Do đó, việc bố trí nguồn vốn đầu tư phát triển cho Tiểu dự án 3, Tiểu dự án 4 là rất cần thiết để thể chế hóa Nghị quyết số 72, Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 27-2-2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, đây cũng là 2 trong 4 chính sách được quy định tại Luật Dân số.

Đại biểu Lê Thị Thanh Lam tham gia ý kiến thảo luận.
Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo rà soát, quan tâm đầu tư thỏa đáng hơn, bảo đảm hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đặt ra đối với vấn đề dân số và phát triển tại Kết luận số 149 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới và Nghị quyết số 72 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho nhân dân.
Vấn đề kinh phí chung giữa y tế và giáo dục mang tính tương đồng. Theo đại biểu, đã là chương trình mục tiêu quốc gia thì Chính phủ phải bảo đảm phân bổ kinh phí cho các địa phương để thực hiện thống nhất, đồng loạt các chương trình. Hạn chế giao cho địa phương chi kinh phí thường xuyên hoặc nguồn xã hội hóa, như thế sẽ không đảm bảo thực hiện thống nhất chương trình. Vì mỗi địa phương có điều kiện và nguồn lực khác nhau, không thể thực hiện cùng chung tiến độ, chất lượng và hiệu quả các chỉ tiêu như nhau. Đề nghị Chính phủ nên phân bổ kinh phí Trung ương cho chương trình mục tiêu quốc gia, không giao kinh phí địa phương và kinh phí xã hội hóa cho địa phương, đặc biệt các đơn vị khó khăn sẽ không đảm bảo tiến độ thực hiện của chương trình. Vì đơn vị có điều kiện nên nâng chất các tiêu chí sẽ tốt hơn, còn đơn vị khó khăn sẽ khó khăn hơn.
Về việc phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương trong công tác quản lý
Theo đại biểu Đào Chí Nghĩa, tại điểm c khoản 3 Điều 1 quy định về nguồn vốn khác. Nguồn vốn dự kiến 594 tỉ đồng/88.635 tỉ đồng (0,67%) chiếm tỷ trọng quá nhỏ so với tổng vốn Chương trình. Việc không cụ thể hóa cơ chế khuyến khích, ưu đãi trong Nghị quyết có thể bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn tư nhân (xã hội hóa) vào các dịch vụ công như y tế dự phòng, gây áp lực lớn lên ngân sách nhà nước. Việc này không xác định cơ chế, chính sách thuận lợi để huy động vốn trong quản trị công hiện đại. Cần tuân thủ nguyên tắc lồng ghép, huy động các nguồn vốn theo Luật Ngân sách nhà nước và các nghị quyết về xã hội hóa lĩnh vực y tế. Đại biểu đề nghị bổ sung nội dung ở khoản 1, Điều 2 như sau: “Giao Chính phủ ban hành cơ chế đặc thù, khuyến khích, ưu đãi để tăng cường huy động vốn ngoài ngân sách (đối tác công tư, xã hội hóa nguồn lực) trong lĩnh vực y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân”.

Đại biểu Đào Chí Nghĩa phát biểu ý kiến.
Tại điểm a, khoản 1 Điều 2, đại biểu đề nghị giao Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan Trung ương thực hiện Chương trình theo đúng Luật Đầu tư công; ban hành hướng dẫn thực hiện Chương trình. Đây là chương trình liên ngành phối hợp phức tạp, nếu việc quy định ban hành hướng dẫn là chưa đủ để giải quyết các vấn đề xung đột chức năng và chồng chéo nguồn vốn. Do vậy cần xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành chi tiết, việc quy định có tính pháp lý cao ngay từ đầu sẽ dẫn đến rủi ro chậm trễ trong quá trình điều hành và là nguyên nhân chính gây tắc nghẽn giải ngân vốn công tại các khâu thẩm định và phê duyệt dự án thành phần ở cấp địa phương. Đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu bổ sung cơ chế quản lý, giám sát và trách nhiệm giải trình theo Luật Đầu tư công và Luật Tổ chức Chính phủ và sửa đổi điểm a, khoản 1, Điều 2 cụ thể như sau: “Chỉ đạo các bộ, cơ quan trung ương có liên quan quyết định đầu tư Chương trình theo quy định của Luật Đầu tư công; ban hành Quy chế phối hợp liên ngành chi tiết giữa các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương bao gồm cơ chế giám sát và lồng ghép nguồn vốn, chậm nhất là 3 tháng kể từ ngày Nghị quyết có hiệu lực, để hướng dẫn Chương trình mục tiêu quốc gia này”.
Tại điểm a, khoản 1, Điều 3 giao HĐND và UBND cấp tỉnh triển khai, thực hiện các nhiệm vụ: “Xây dựng kế hoạch, cân đối, bố trí, phân bổ vốn ngân sách địa phương để thực hiện Chương trình”. Việc phân cấp mạnh về cho cấp tỉnh là hợp lý, nhưng cần đi kèm với việc tăng cường năng lực thực thi ở tuyến xã; việc thiếu hụt chuyên môn về quản lý dự án đầu tư công, kế toán, và khả năng lồng ghép vốn tại tuyến cơ sở dễ dẫn đến rủi ro pháp lý về sai phạm tài chính và chậm giải ngân vốn đầu tư công tại những nơi cần thiết nhất. Nguyên tắc phân cấp phải đi đôi với năng lực quản trị và nguồn lực thực hiện, căn cứ theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương và yêu cầu về kiểm soát nội bộ và giải ngân theo Luật Ngân sách Nhà nước. Đại biểu đề nghị bổ sung vào điểm a khoản 1 Điều 3 như sau: “a) Xây dựng kế hoạch, cân đối, bố trí, phân bổ vốn ngân sách địa phương để thực hiện Chương trình; đồng thời, chỉ đạo tổ chức tập huấn, bồi dưỡng bắt buộc về kỹ năng quản lý dự án, kế toán, giải ngân vốn đầu tư công và kỹ năng lồng ghép nguồn vốn cho đội ngũ cán bộ tài chính, kế toán và quản lý dự án tại cấp xã, nhằm bảo đảm hiệu quả và tuân thủ pháp luật trong triển khai Chương trình tại tuyến cơ sở”.
ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TP CẦN THƠ