12/02/2015 - 16:17

Dấu ấn hội nhập

Bút ký: Thu Hà

Chiều cuối năm. Rót tách trà mời khách, chú Ba Canh (Nguyễn Quang Canh), ở khu vực Thới Hòa, phường Phước Thới, quận Ô Môn, TP Cần Thơ, nói với tôi: “Ăn xong cái Tết này, gia đình chú sẽ dọn về khu 6A, 6B- khu tái định cư của Khu công nghiệp Trà Nóc 2. Ở đó không buôn bán sung túc như ở đây, nhưng phải đi thôi, vì khu công nghiệp phải mở rộng để phát triển chứ”. Trở thành nông dân công nghiệp bất đắc dĩ, có chút băn khoăn, lo lắng nhưng chú Ba Canh cho rằng phát triển kinh tế phải cần có khu công nghiệp (KCN).

Nông dân công nghiệp

Ba đời gia đình chú Ba Canh sống ở Phước Thới. 64 năm chú bám trụ ở vùng đất này, làm nông làm kế sinh nhai. “Nhà đông anh em, đất hương hỏa cha mẹ cho chỉ hơn 800 mét vuông vườn tạp. Tui lập gia đình, năm đứa con, bốn trai, một gái chen chúc trên mảnh đất này. Làm vườn không đủ sống, tui cùng bà nhà đi gặt mướn. Hết mùa gặt, ai thuê gì làm đó. Cuộc sống bấp bênh lắm. KCN Trà Nóc 2 hình thành, hai đứa con vào nhà máy làm công nhân, lương hơn 4 triệu đồng/tháng, tiết kiệm chi tiêu cũng tích lũy được một ít. Tui và vợ cũng kiếm thêm một ít từ quán nước nhỏ ở đầu doi con rạch Cả Chôm và chiếc đò ngang đưa đón công nhân từ Vĩnh Long sang KCN. Không có KCN người dân ở đây đi làm thuê nhưng phải theo mùa vụ. Có KCN rồi, người trong tuổi lao động đều có thể vào đó làm công nhân, việc quanh năm. Chỉ có làm biếng mới không có tiền thôi!”- chú Ba Canh nói.

Ban đầu, bị giải tỏa làm KCN, chú Ba Canh cũng như những hộ dân ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) mất đất cho KCN rất lo lắng. Có người vác đơn đi kiện vì bồi thường không thỏa đáng, có người nhận tiền bồi hoàn nhưng nhùng nhằng không chịu đi, chính quyền địa phương phải giải thích rất nhiều lần mới hiểu ra. Mặc dù còn rất nhiều băn khoăn cho sự phát triển của 51 KCN, hơn 200 cụm công nghiệp tập trung ĐBSCL vì tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp chỉ hơn 50%, nhưng người dân sống cạnh KCN có công ăn việc làm ổn định, dịch vụ thương mại, tiểu thủ công nghiệp địa phương cũng phát triển. Khu dân cư, nhà cao tầng mọc lên phục vụ sự phát triển của các KCN. Những nông dân trước trông trời, con nước đoán mưa nắng, vận vào sản xuất giờ trở thành những nông dân công nghiệp, phụ thuộc vào biến động của xã hội. Có người hòa nhập nhanh nhưng cũng có người bị cuốn vào vòng xoáy xô bồ của đô thị. Song, họ vẫn hiểu rằng, muốn kinh tế phát triển, đất nước tiến lên cần phải có công nghiệp.

“Thu hồi đất sản xuất của dân làm KCN, xót lắm chứ. Bởi vậy, chúng tôi phải sử dụng đúng mục đích và cam kết tạo công ăn việc làm ổn định cho người dân. Kể từ năm 2015, nếu DN đầu tư hạ tầng nào không giải phóng mặt bằng đạt chỉ tiêu đề ra, chúng tôi sẽ kiến nghị thành phố xem xét thu hồi dự án. Tấc đất của dân là tấc vàng”- ông Võ Thanh Hùng, Trưởng Ban Quản lý các khu chế xuất và công nghiệp Cần Thơ (BQL KCX&CN Cần Thơ) trăn trở. Đất nước đang chuyển mình để công nghiệp hóa. Ở châu thổ sông Cửu Long, sự phát triển của các KCN tô thêm sắc màu cho quá trình công nghiệp hóa. Tính ưu việt của các KCN là dễ dàng thu hút đầu tư, công nghệ tiên tiến đến từ nước ngoài kết hợp với các nguồn nội lực thúc đẩy sự phát triển nền công nghiệp nước nhà. Đây cũng là xu thế tất yếu trong hội nhập kinh tế toàn cầu. Trong năm 2014, ĐBSCL đón nhiều đoàn nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là Hàn Quốc, Nhật Bản. Cùng đó, các tập đoàn kinh tế lớn trong nước cũng đến tìm cơ hội đầu tư. Từ những dự án đầu tư vào các KCN, vựa lúa, vựa cá, tôm, trái cây đang chuyển mình tiến lên công nghiệp hóa, hòa nhịp cùng các địa phương cả nước đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp.

Dấu cộng xanh

Hồi tháng 4-2014, đoàn doanh nghiệp (DN) Nhật Bản với khoảng 40 DN thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản đến ĐBSCL tìm cơ hội đầu tư. Khảo sát tại TP Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp, ông Kohei Wantanabe, Chủ tịch Ủy ban hợp tác Mekong- Nhật Bản cho biết ông rất ấn tượng với tiềm năng trong nông nghiệp của vùng châu thổ. “Chúng tôi đến ĐBSCL với mong muốn tìm cơ hội hợp tác, đầu tư vào sản phẩm nông nghiệp của vùng. Các DN Nhật sẽ nghiên cứu để cùng DN ĐBSCL tạo ra những sản phẩm chất lượng cao; đồng thời đầu tư vào công nghiệp phụ trợ. Chúng tôi mong muốn được hợp tác lâu dài”- ông Kohei Wantanabe khẳng định.

Chế biến cá tra xuất khẩu là mặt hàng thế mạnh của Cần Thơ (ảnh: Chế biến cá tra xuất khẩu tại Công ty TNHH Công nghiệp thủy sản Miền Nam, KCN Trà Nóc 2). Ảnh: THU HÀ 

 Lão nông Nguyễn Quang Canh, ở khu vực Thới Hòa, phường Phước Thới, quận Ô Môn,
TP Cần Thơ chờ đón công nhân tan ca. Ảnh: THU HÀ

Giờ cơm trưa của công nhân Công ty TNHH Công nghiệp thủy sản miền Nam (KCN Trà Nóc 2, TP Cần Thơ). Ảnh: THU HÀ 

Khu nhà trẻ của KCN Long Hậu. Ảnh: CTV 

Đến Cần Thơ - thành phố trung tâm động lực ĐBSCL, nhà đầu tư không được ưu đãi về vùng, tiền thuê đất trong KCN tuy có cao,… nhưng hạ tầng giao thông thủy, bộ, hàng không hoàn thiện hơn các địa phương trong vùng, các nhà đầu tư lợi hơn. Đó là thông điệp mà ông Võ Thanh Hùng, Trưởng BQL KCX&CN Cần Thơ gửi gắm. Hơn 20 năm hình thành và phát triển, thành tựu lớn nhất là lấp đầy cơ bản ba KCN, gồm: Trà Nóc 1, Trà Nóc 2, Thốt Nốt giai đoạn 1&2. Hiện các KCN đóng góp 30% nguồn thu cho ngân sách thành phố, góp phần tạo nên giá trị sản xuất công nghiệp đứng thứ 2 vùng ĐBSCL. TP Cần Thơ hiện có 6 KCN đang hoạt động với diện tích khoảng 906ha và 2 KCN đang quy hoạch, diện tích gần 1.450ha. Các KCN đang hoạt động có 214 dự án còn hiệu lực đầu tư, tổng vốn đăng ký gần 1,92 tỉ USD, tỷ lệ lấp đầy hơn 62,5% diện tích đất công nghiệp. Các KCN hiện có khoảng 32.000 lao động đang làm việc, mức thu nhập bình quân từ 2- 4 triệu đồng/người/tháng. “Thành phố đang xây dựng Vườn ươm Công nghệ công nghiệp Việt Nam- Hàn Quốc do Chính phủ Hàn Quốc viện trợ 17,7 triệu USD. Khi vườn ươm vận hành sẽ mở ra cơ hội trong thu hút đầu tư vào thành phố. Đặc biệt là thu hút ngành công nghiệp công nghệ cao”- ông Hùng nói chắc nịch.

Không lợi thế như Cần Thơ, Hậu Giang là tỉnh thuần nông, để tận dụng các cơ hội đầu tư, tỉnh bố trí KCN và cụm công nghiệp tập trung sát ranh giới hành chính với Cần Thơ. Ông Nguyễn Tấn Hưng, Trưởng BQL KCN Hậu Giang, cho biết: “Hiện có 43 dự án đầu tư vào KCN, gồm 39 DN trong nước và 4 DN FDI, vốn đăng ký 47.521 tỉ đồng và 668,7 triệu USD. Nhưng các DN này hiện đóng góp gần 65% giá trị sản xuất công nghiệp và khoảng 82% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Chúng tôi không ngừng cải thiện môi trường đầu tư để tận dụng tốt các cơ hội khi nhà đầu tư đến tỉnh”. Từ những kết quả này, Hậu Giang đã tạo được những ấn tượng tốt với các nhà đầu tư để góp phần tô thêm sức sống cho dòng chảy công nghiệp sông Hậu.

Nơi cửa ngõ ĐBSCL - tỉnh Long An đã tận dụng triệt để lợi thế tiếp giáp với TP HCM. Năm 2014 được xem là năm được “mùa” thu hút đầu tư. Tỉnh hiện có 28 KCN, diện tích 10.216ha; trong đó 16 KCN đang hoạt động với tổng diện tích gần 3.999 ha, tỷ lệ lấp đầy 49,41%, với 75.600 lao động đang làm việc. Theo Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh Long An (LAEZA), năm 2014, các KCN thu hút thêm 79 dự án FDI, vốn đăng ký trên 433,4 triệu USD (tăng 132,4% dự án so với năm 2013) và 69 dự án trong nước, vốn đăng ký hơn 6.285 tỉ đồng (tăng 38% dự án). Các KCN hiện có 335 dự án FDI, vốn trên 2,15 tỉ USD và 581 dự án đầu tư trong nước, vốn khoảng 34.366 tỉ đồng. “Hiện có 500 DN đang hoạt động, gồm 195 dự án FDI và 305 dự án trong nước. Năm 2014, doanh thu của các DN FDI đạt 1,28 tỉ USD, tăng 30,73%, doanh nghiệp trong nước đạt 17.612 tỉ đồng, tăng 66,8% so với năm 2013. Các DN nộp ngân sách 44,42 triệu USD và 818 tỉ đồng, tăng 50 - 64,7% so với năm 2013” - ông Nguyễn Văn Tiều, Trưởng ban LAEZA cho biết. Hiện giá trị sản xuất công nghiệp của các DN trong KCN chiếm 38,27% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Vùng cửa ngõ giờ sôi động hơn khi các DN nhỏ và vừa của Nhật Bản rất quan tâm thị trường này.

Bến Tre cũng đang trở thành địa điểm mới hấp dẫn các nhà đầu tư. Năm 2014, tỉnh đón 198 nhà đầu tư, KCN Giao Long và An Hiệp là điểm sáng trong thu hút đầu tư của tỉnh; tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp cho thuê đối với An Hiệp là 100%; Giao Long 1 là 95% và Giao Long 2 là 73,4%. Hiện có 39 giấy chứng nhận đầu tư còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký 9.696 tỉ đồng, trong đó 24 dự án đã đi vào hoạt động. Giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN đóng góp khoảng 47% giá trị toàn ngành công nghiệp và góp khoảng 67% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, tạo việc làm trực tiếp cho 23.000 lao động và hàng ngàn lao động gián tiếp. Hiện trong KCN đã có DN đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD/năm. Đó là thông điệp tôi biết từ Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Bến Tre Nguyễn Trúc Sơn.

Bạn đồng hành

Có được thành quả như hôm nay là quá trình phấn đấu và nỗ lực rất lớn của các địa phương và DN. Ông Nguyễn Văn Tiều, Trưởng ban LAEZA, nói: “Long An không có nhiều dự án qui mô lớn, nhưng những năm qua, trung bình mỗi năm các KCN thu hút hàng trăm dự án đầu tư, tạo ra hàng ngàn việc làm cho người lao động. LAEZA đã xây dựng cổng thông tin chi tiết về các KCN đang hoạt động trên địa bàn tỉnh với 4 ngôn ngữ. LAEZA là người bạn đồng hành của DN suốt quá trình hoạt động. Chúng tôi xem khó khăn của DN là khó khăn của mình để xử lý hợp lý, hợp tình. Tạo sự an tâm cho nhà đầu tư khi đến Long An - vùng đất trung dũng, kiên cường”.

LAEZA đã lan truyền thông điệp này đến các DN đầu tư hạ tầng KCN. Trong 28 KCN được quy hoạch có 38 nhà đầu tư hạ tầng, những DN này đã tạo nên những thành công lớn cho sự phát triển của các KCN. Điển hình như KCN Long Hậu, huyện Cần Giuộc, do Công ty cổ phần Long Hậu (LHC) làm chủ đầu tư. KCN Long Hậu giai đoạn 1 có diện tích 148 ha đã lấp đầy 95% diện tích, giai đoạn 2 khoảng 110 ha và 37 ha khu dân cư đã lấp đầy 65%; giai đoạn 3 khoảng 130ha đang triển khai. Ông Trần Tấn Sỹ, Giám đốc Marketting LHC, hồ hởi khoe: “KCN Long Hậu nằm vị trí số 5 trên bản đồ Tiến ra biển Đông của TP HCM. Trong quy hoạch, LHC hướng đến khách hàng mục tiêu là các DN vừa và nhỏ - SMEs, thị trường mục tiêu là thị trường Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc. LHC đã mời gọi thành công 136 DN (61 nhà đầu tư trong nước, 41 nhà đầu tư Nhật Bản và 10 nhà đầu tư Hàn Quốc). Sứ mệnh của LHC là xây dựng môi trường sống và làm việc thuận lợi nhất, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển bền vững”. Không chỉ thế, LHC còn thiết lập mạng lưới các nhà cung cấp nhằm hỗ trợ DN tìm kiếm yếu tố đầu vào và tham gia các cơ hội giao thương để phát triển đầu ra. Long Hậu là KCN thứ 2 cả nước đạt ISO: 2004 về quản lý môi trường. Tại đây, 100% nước thải được tái sử dụng và được đánh giá là KCN thân thiện môi trường, xanh- sạch- đẹp.

Hay KCN Thịnh Phát, huyện Bến Lức, tỉnh Long An do Công ty cổ phần địa ốc- cáp điện Thịnh Phát làm chủ đầu tư cũng nằm trong tốp các KCN hoạt động hiệu quả. Ông Trương Cao Cường, Phó Tổng Giám đốc công ty, cho biết: “Nơi đây là vùng trũng thấp. Giờ Thịnh Phát đã có 28 nhà đầu tư, giải quyết việc làm cho 1.800 lao động. Chúng tôi đầu tư hoàn thiện hạ tầng trước khi mời gọi đầu tư, KCN 75 ha đã lấp đầy 82% với các DN ngành chế biến thức ăn, cơ khí, điện, thiết bị y tế, cáp điện…”. Song, kinh doanh hạ tầng KCN chỉ là kinh doanh phụ và chiếm rất nhỏ trong tổng doanh thu hằng năm của Thịnh Phát. Doanh thu chính của Thịnh Phát từ nhà máy sản xuất dây cáp điện đặt tại KCN. Sản phẩm của công ty cung cấp cho hầu hết các công trình trọng điểm quốc gia như đường dây 500kV Nhà Bè - Ô Môn, đường dây 220kV Cà Mau - Bạc Liêu, Ô Môn - Sóc Trăng, các công trình cầu Cần Thơ, nhà máy điện đạm Cà Mau, nhà máy nhiệt điện Ô Môn... cũng sử dụng cáp điện của Thịnh Phát. Năm 2014 này, doanh thu của công ty đạt 3.700 tỉ đồng, tăng 23% so với năm 2013. Thịnh Phát giờ là DN hàng đầu trong ngành dây cáp điện Việt Nam. Công ty xếp thứ 126/500 DN tư nhân lớn nhất Việt Nam và thứ 338/500 DN các loại hình lớn nhất Việt Nam do VNR bình chọn. “Hướng lâu dài vẫn giữ thị trường xuất khẩu truyền thống là Campuchia, Lào và Myanmar, củng cố nội lực ở thị trường nội địa. TPP, AEC và các FTA sắp thực hiện là áp lực rất lớn cho DN, nhưng chúng tôi đã chuẩn bị rồi. Chọn đúng người, đúng chuyên môn để phân công nhiệm vụ hợp lý từ khâu sản xuất đến bán hàng để hội nhập quốc tế”- ông Cường chia sẻ. Tỉnh Long An cũng vừa cho chủ trương mở rộng KCN Thịnh Phát thêm 120ha. Ông Cường cho biết, Thịnh Phát sẽ tiếp tục sứ mệnh cùng địa phương giải quyết an sinh xã hội, tạo thêm nguồn thu.

***

Đi dọc sông Tiền, sông Hậu, chứng kiến những đổi thay của những vùng đất lúa, cây tạp, ruộng mía… kém phát triển ngày nào giờ đã là những KCN bề thế với hàng trăm ngàn công nhân đang làm việc mới thấy sự đổi thay của vùng châu thổ. Những nông dân như chú Ba Canh giờ ở tuổi thất thập sẽ đau đáu nhớ mùi khói đồng bay khi vào mùa gặt. Nhưng không tiếc khi mất đất, vì họ được nhiều hơn mất. Chú Ba Canh nói: “Cuộc sống ở đây giờ đổi khác lắm rồi, sung túc hơn. Chúng tôi chỉ mong các DN trong KCN hạn chế xả thải ra môi trường. Người dân ý thức hơn trong nuôi cá để con rạch Cả Chôm này vẫn chảy”.

Chia sẻ bài viết