15/10/2019 - 13:02

Cần giữ nước ngọt cho Đồng bằng sông Cửu Long 

Với thực tế nguồn nước ngọt ở hạ nguồn sông Mekong nói chung và ĐBSCL nói riêng đang dần cạn kiệt. Năm nay nông dân ngóng lũ, chúng ta nên tiến hành những giải pháp nào để giữ nước ngọt cho ĐBSCL? Đó là vấn đề đặt ra không chỉ với các nhà khoa học lưu tâm, mà cần chung tay vào cuộc của các nhà quản lý và cả cộng đồng...

Dưới tác động của biến đổi khí hậu, các hiện tượng thời tiết cực đoan như khô hạn và giông bão ngày càng xảy ra bất thường và rất khó dự báo. Mùa mưa năm nay đến khá muộn trên toàn bộ lưu vực sông Mekong, làm cho tổng lượng nước vào sông Mekong suy giảm đáng kể. Ngoài ra, việc các đập thủy điện trên thượng nguồn tích nước đã làm trầm trọng thêm vấn đề khô hạn ở hạ nguồn. Do đó, ĐBSCL đang rơi vào thế bị động trước những hiện tượng thời tiết cực đoan lẫn những tác động mạnh mẽ của việc tích nước ở thượng nguồn. Điều này khiến cho việc đưa ra các giải pháp ứng phó gặp rất nhiều khó khăn.

Tuy rằng bây giờ lượng nước sông Mekong về ĐBSCL đang thấp kỷ lục, tuy nhiên cũng vẫn có khả năng có những đợt mưa bão lớn đột xuất dẫn tới lụt lội ở thượng nguồn và nếu tình huống đó xảy ra thì các đập thủy điện phải xả nhanh nước làm cho lượng nước về ĐBSCL có thể tăng nhanh bất ngờ. Đây là vấn đề nan giải mà chúng ta đang gặp phải trong công tác cảnh báo lũ. Để chủ động về nguồn nước, việc trữ nước ngọt cho ĐBSCL là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, chúng ra cần có chiến lược thực hiện việc này một cách khoa học, dựa trên các đặc thù về nguồn nước, không gian và thời gian cụ thể.

Về nguồn nước ngọt, ĐBSCL có 3 nguồn nước ngọt chính: Nguồn nước từ sông Mekong, nguồn nước ngầm và nguồn nước mưa tại chỗ. Trong đó, hiện nay chúng ta đang tập trung chủ yếu khai thác nguồn nước sông Mekong, kế đó là nước ngầm, nước mưa chủ yếu phục vụ sinh hoạt ở các vùng sâu, vùng xa. Điều đáng lưu ý là nguồn nước sông như đã phân tích ở trên rất dễ bị tổn thương và khó kiểm soát do tác động từ bên ngoài và rất dễ bị ô nhiễm. Nguồn nước ngầm thì đang bị suy giảm nhanh gây ra lún sụt đất, nên trong tương lai bắt buộc phải giảm sử dụng nguồn nước này. Do đó việc kết hợp sử dụng một cách hài hòa của 3 nguồn nước rất cần thiết.

Về không gian, theo nguồn nước, ĐBSCL được chia ra thành 5 tiểu vùng sinh thái khác nhau đó là: Tứ giác Long Xuyên,  Đồng Tháp Mười, vùng nước ngọt cao ven sông, vùng cửa sông ven biển Đông, vùng Bán đảo Cà Mau.

Các tiểu vùng có lợi thế về tích trữ nước do có địa hình trũng là Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười và Bán đảo Cà Mau. Trong đó, vùng Bán đảo Cà Mau tuy xa sông Hậu nhưng lại có đặc thù là lượng mưa trung bình hằng năm cao nhất cả vùng. Một đặc thù quan trọng nữa là ĐBSCL đã có một hệ thống kênh rạch chằng chịt, đa số đều có hệ thống cống kiểm soát mực nước, do đó, hệ thống này rất thuận lợi cho việc chứa nước.

Về thời gian, với các đặc thù về nguồn nước và không gian như đã trình bày ở trên, vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải trả lời được chính xác các câu hỏi sử dụng hay tích trữ nguồn nước nào, ở đâu và khi nào? Để có thể sử dụng được một cách tối ưu các ưu thế đặc thù của điều kiện tự nhiên.

Theo tôi, đối với vùng Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, các vùng ven sông, chúng ta cần trữ nước lũ ở cuối mùa lũ, vào khoảng tháng 10, 11 vào các vùng trũng thấp, ao hồ và kênh rạch. Đối với vùng ven biển và Bán đảo Cà Mau: Trong suốt mùa lũ, bên cạnh trữ nước lũ, việc trữ nước mưa cũng rất quan trọng vì nếu lũ không về thì chúng ta vẫn có nước.

Một lưu ý quan trọng cho giải pháp này là việc kiểm soát nghiêm ngặt chất lượng nước vào các khu chứa này. Nếu không thì các khu vực chứa nước sẽ bị ô nhiễm và nước đó không những không sử dụng được mà còn phá hủy các hệ sinh thái tự nhiên. Trong tương lai dài hạn, khi kinh tế phát triển và điều kiện thời tiết thuận lợi, chúng ta có thể xây dựng các khu hồ điều hòa để trữ và bơm nước lũ và mưa vào các tầng chứa nước ngầm để phục hồi nguồn nước này, để những năm khô hạn thì vẫn có nguồn nước ngầm này để ứng phó tức thì.

Mô hình chuyển đổi cây trồng thời vụ, thích ứng biến đổi khí hậu, hạn chế sử dụng nước ngọt được triển khai thực hiện ở khu vực ĐBSCL. Ảnh: H.V

Bên cạnh việc gia tăng nguồn nước tích trữ, việc nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật và chính sách để tiết kiệm nước trong canh tác nông nghiệp, trong sản xuất công nghiệp, và dịch vụ cũng rất quan trọng. Ở một số nước phát triển, khi nguồn nước đặc biệt khó khăn, người ta đã phải thực hiện các giải pháp tái sử dụng nước thải. Các giải pháp này một phần gia tăng khả năng chống chịu và giảm các tác động môi trường, phần khác gia tăng hiệu quả kinh tế của ĐBSCL.

Việc áp dụng giải pháp trữ nước ngọt cho ĐBSCL gắn liền với việc đảm bảo sinh kế cho người dân. Ví dụ như các khu hồ điều hòa chứa nước có thể tạo không gian sinh thái kết hợp dịch vụ giải trí, mua bán, tạo công ăn việc làm cho người dân. Kết hợp nuôi trồng thủy sản và các loại rau màu thủy sinh cũng là một hướng tốt. Một số tỉnh như Đồng Tháp cũng đã thực hiện thành công mô hình sen - cá - du lịch sinh thái.

Vấn đề mà chúng ta cần lưu ý là việc đảm bảo cho đầu ra của các mô hình này được bền vững. Nếu chúng ta kiểm soát được tốt quá trình sản xuất theo các tiêu chuẩn sạch, sinh thái, hay hữu cơ và tìm được thị trường tốt thì thậm chí  giá trị sinh kế cũng gia tăng đáng kể. Việc sản xuất thuận thiên, ít ảnh hưởng chất lượng môi trường cũng khiến cho chất lượng nước mặt của ĐBSCL được cải thiện tốt hơn và do đó sinh kế được bền vững hơn.Trước mắt chúng ta cần phải nghiên cứu một cách chi tiết các kịch bản nhu cầu nước ngọt của các tiểu vùng cũng như các kịch bản nguồn nước ngọt hiện tại cũng như tương lai. Thực tế cho thấy trong thời gian qua cả nhu cầu nước và nguồn nước ngọt biến động rất lớn.

Trong khi nhu cầu nước gia tăng lớn do phát triển kinh tế thì nguồn nước bị suy giảm do biến đổi khí hậu và tích nước thượng nguồn, nhất là trong những năm khô hạn. Do đó, nếu chúng ta kiểm soát được nhu cầu sử dụng nước ngọt thông qua các biện pháp tiết kiệm nước hay nói cách khác sử dụng hiệu quả nguồn nước và chuyển đổi một số vùng canh tác nước ngọt sang nước lợ, mặn (thủy sản). Đồng thời, gia tăng tích lũy nước lũ, mưa của mùa trước thì chúng ta có thể giảm được các rủi ro thiếu nước. Điều này có nghĩa là chưa có câu trả lời chính xác cho việc trữ nước đủ cho đến khi chúng ta có một chiến lược sử dụng nước ngọt, lợ và mặn một cách hiệu quả nhất. Ở đây tôi muốn nói về yếu tố sử dụng nước một cách
thuận thiên.

PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung,

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu - Trường Đại học Cần Thơ - Chánh Văn phòng 100RC Cần Thơ

Chia sẻ bài viết