20/11/2010 - 20:49

Windows: 25 năm phát triển vững mạnh

Đã 25 năm kể từ khi Microsoft tung ra phiên bản đầu tiên của hệ điều hành Windows, và những gì bắt đầu hồi tháng 11-1985 như một giao diện đồ họa cho hệ điều hành DOS đã phát triển thành hệ điều hành được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Để đánh dấu sinh nhật lần thứ 25 của Windows, chúng ta nhìn lại những dấu ấn thú vị trong lịch sử phát triển của nó.

1975-1981: Microsoft “khởi động”

 

Hồi những năm 1970, người ta làm việc với máy đánh chữ. Nếu cần sao chép một tài liệu, họ sử dụng máy rô-nê-ô hay giấy than. Rất ít người nghe nói đến máy vi tính, nhưng 2 thanh niên đam mê máy tính, Bill Gates và Paul Allen, nhận thấy được rằng máy tính cá nhân là con đường đi tới tương lai.

Năm 1975, Gates và Allen thành lập một công ty mang tên Microsoft. Giống như phần lớn các công ty mới thành lập, Microsoft khởi sự nhỏ nhoi nhưng có tầm nhìn lớn - một máy tính trên tất cả bàn làm việc và trong mọi gia đình. Trong những năm sau đó, Microsoft bắt đầu thay đổi cách thức mọi người làm việc.

Tháng 6-1980, Gates và Allen thuê bạn cùng lớp cũ của Gates ở đại học Havard, Steve Ballmer, để giúp điều hành công ty. Tháng sau đó, IBM tiếp cận Microsoft về một dự án mang tên “Chess”. Để hưởng ứng, Microsoft tập trung vào một hệ điều hành mới - phần mềm quản lý, hay chạy phần cứng máy tính và cũng phục vụ để nối khoảng cách giữa phần cứng máy tính và chương trình. Nó là nền tảng mà chương trình máy tính có thể chạy trên đó. Họ đặt tên hệ điều hành mới là “MS-DOS”.

Khi máy tính IBM chạy MS-DOS xuất xưởng hồi năm 1981, nó giới thiệu một ngôn ngữ mới hoàn toàn với cộng đồng. Việc gõ “C:” và nhiều lệnh khó hiểu dần trở thành công việc hàng ngày của nhiều người. Họ bắt đầu phát hiện ra phím “”. MS-DOS hữu dụng, nhưng cũng gây khó hiểu cho nhiều người. Phải có giải pháp tốt hơn để xây dựng một hệ điều hành.

1982-1985: Giới thiệu Windows 1.0

Microsoft phát triển phiên bản đầu tiên của một hệ điều hành mới. “Interface Manager” là tên mã và được xem là tên cuối cùng, nhưng tên “Windows” được chọn vì nó mô tả chính xác nhất các hộp hay “cửa sổ” máy tính, thành phần cơ bản cho hệ điều hành mới. Windows được công bố hồi năm 1983, nhưng nó cần thêm thời gian để phát triển.

Ngày 20-11-1985, 2 năm sau công bố đầu tiên, Microsoft xuất xưởng Windows 1.0. Khi đó, thay vì gõ lệnh MS-DOS, người ta chỉ việc di chuyển chuột để trỏ và nhắp khắp màn hình, hay “cửa sổ”.

Có các trình đơn xổ xuống, thanh cuộn, biểu tượng và hộp thoại làm cho những chương trình dễ học và sử dụng hơn. Người ta có thể chuyển đổi giữa nhiều chương trình mà không phải thoát ra và mở lại. Windows 1.0 có nhiều chương trình bao gồm quản lý tập tin MS-DOS, Paint, Windows Writer, Notepad, Calculator, lịch, quản lý thông tin cá nhân Cardfile và đồng hồ. Thậm chí còn có trò chơi Reversi.

1987-1992: Windows 2.0-2.11- Nhiều cửa sổ hơn, tốc độ cao hơn

Ngày 9-12-1987, Microsoft tung ra Windows 2.0 với biểu tượng desktop và bộ nhớ mở rộng. Với hỗ trợ đồ họa cải thiện, khi đó người ta có thể xếp chồng cửa sổ, điều khiển giao diện màn hình, và sử dụng phím tắt để tăng tốc công việc. Một số nhà phát triển phần mềm đã viết những chương trình đầu tiên chạy trên Windows cho phiên bản này.

Windows 2.0 được thiết kế cho bộ xử lý Intel 286. Khi bộ xử lý Intel 386 được tung ra, Windows/386 nhanh chóng theo sau để tận dụng khả năng bộ nhớ mở rộng. Các phiên bản Windows tiếp sau tiếp tục cải thiện tốc độ, độ ổn định và tính khả dụng của máy tính.

Năm 1988, Microsoft trở thành công ty phần mềm máy tính lớn nhất thế giới dựa trên doanh số. Máy tính bắt đầu trở thành một phần của cuộc sống hàng ngày đối với một số nhân viên văn phòng.

1990-1994: Windows 3.0-Windows NT- đón nhận đồ họa

Ngày 22-5-1990, Microsoft công bố Windows 3.0, sau đó không lâu là Windows 3.1 vào năm 1992. Gộp chung lại, họ bán 10 triệu bản trong 2 năm đầu, trở thành hệ điều hành Windows được sử dụng rộng rãi nhất khi đó. Mức độ của thành công này khiến Microsoft xem xét lại những kế hoạch trước đó. Bộ nhớ ảo cải thiện đồ họa hiển thị. Năm 1990, Windows bắt đầu trông giống như các phiên bản gần đây.

Windows lúc đó có hiệu suất tốt hơn đáng kể, đồ họa cao cấp với 16 màu, và biểu tượng cải tiến. Một “làn sóng” máy tính 386 mới giúp thúc đẩy sự phổ dụng của Windows 3.0. Với hỗ trợ toàn diện cho bộ xử lý Intel 386, các chương trình chạy nhanh hơn đáng kể. Các trình quản lý Program Manager (chương trình), File Manager (tập tin), và Print Manager (máy in) xuất hiện trong Windows 3.0.

Windows được cài đặt bằng đĩa mềm được mua trong các hộp lớn với nhiều sách chỉ dẫn nặng chịt. Sự phổ dụng của Windows 3.0 gia tăng với việc tung ra một bộ phát triển phần mềm Windows (SDK) mới, giúp những nhà phát triển phần mềm tập trung nhiều hơn vào viết chương trình và ít hơn vào viết trình điều khiển thiết bị.

Windows được sử dụng nhiều hơn tại nơi làm việc, ở nhà, và đã có các trò chơi như Solitaire, Hearts, và Minesweeper. Windows for Workgroups 3.11 tăng cường hỗ trợ mạng miền và nhóm ngang hàng, các máy tính trở thành một phần không thể thiếu của phát triển tính toán máy chủ/khách đang nổi lên.

Khi Windows NT được tung ra hồi 27-7-1993, Microsoft đạt được một cột mốc quan trọng: hoàn thành một dự án bắt đầu hồi cuối những năm 1980 để xây dựng một hệ điều hành mới cao cấp từ con số 0.

Không giống Windows 3.1, Windows NT 3.1 là một hệ điều hành 32 bit, một nền tảng kinh doanh chiến lược hỗ trợ các chương trình khoa học và kỹ thuật cao cấp.

1995-2001: Windows 95 và phiên bản đầu tiên của Internet Explorer

Ngày 24-8-1995, Microsoft tung ra Windows 95, bán ra kỷ lục 7 triệu bản trong 5 tuần đầu tiên. Đây là kỷ nguyên của fax/modems, e-mail, thế giới trực tuyến mới, trò chơi đa phương tiện rực rỡ và phần mềm giáo dục. Windows 95 hỗ trợ Internet tích hợp, nối mạng quay số, khả năng cắm/chạy (Plug and Play) mới giúp cho việc cài đặt phần cứng và phần mềm dễ dàng. Hệ điều hành 32 bit cũng cung cấp khả năng đa phương tiện cải tiến, nhiều tính mạnh mẽ hơn cho tính toán di động, và mạng tích hợp. Windows 95 giới thiệu diện mạo đầu tiên của trình đơn Start, thanh tác vụ, và các nút thu nhỏ, phóng to và đóng trên mỗi cửa sổ. Mùa hè năm 1995, phiên bản đầu tiên của trình duyệt Internet Explorer được tung ra.

1998-2000: Windows 98, Windows Me, Windows 2000

- Windows 98:

Được tung ra ngày 25-6-1998, Windows 98 là phiên bản Windows đầu tiên được thiết kế đặc biệt cho người dùng. Với Windows 98, người dùng có thể tìm thông tin dễ dàng hơn trên máy tính cũng như Internet. Các cải tiến khác bao gồm khả năng mở và đóng chương trình nhanh hơn, và hỗ trợ đọc đĩa DVD và thiết bị USB. Tính năng xuất hiện lần đầu tiên khác là thanh Quick Launch, giúp mở chương trình nhanh chóng mà không phải tìm kiếm trên trình đơn Start hay desktop.

- Windows Me:

Được thiết kế cho sử dụng ở nhà, Windows Me cung cấp nhiều cải tiến về nhạc, video, mạng gia đình và độ tin cậy so với các phiên bản trước. Xuất hiện lần đầu tiên là tính năng phục hồi hệ thống System Restore, công cụ chỉnh sửa/chia sẻ video gia đình Windows Movie Maker, và với công nghệ Windows Media Player 7, người dùng có thể tìm kiếm, tổ chức và phát nội dung đa phương tiện.

- Windows 2000 Professional:

Windows 2000 Professional được thiết kế để thay thế Windows 95, Windows 98, và Windows NT Workstation 4.0 trên tất cả máy để bàn doanh nghiệp và máy tính xách tay. Nó tăng cường các cải tiến quan trọng về độ tin cậy, dễ sử dụng, tương thích Internet và hỗ trợ tính toán di động.

Trong số những cải tiến khác, Windows 2000 Professional đơn giản hóa cài đặt phần cứng bằng cách tăng cường hỗ trợ nhiều loại phần cứng cắm/chạy mới, bao gồm các sản phẩm không dây và nối mạng cao cấp, thiết bị USB, thiết bị IEEE 1394 và hồng ngoại.

2001-2005: Windows XP - Ổn định, khả dụng, và nhanh

Ngày 25-10-2001, Windows XP được tung ra với giao diện được tái thiết tập trung vào tính khả dụng và một trung tâm dịch vụ Giúp đỡ và hỗ trợ thống nhất. Đối với Microsoft, Windows XP sẽ trở thành một trong những sản phẩm bán chạy nhất trong các năm sau. Nó vừa nhanh vừa ổn định. Sự lo ngại virus máy tính và tin tặc gia tăng, nhưng phần nào được giảm bớt bởi các bản cập nhật an ninh trực tuyến. Người dùng bắt đầu hiểu được khuyến cáo về virus và các tập tin đính kèm khả nghi.

2006-2008: Windows Vista - Thông minh về an ninh

Windows Vista được tung ra năm 2006 với hệ thống an ninh mạnh nhất. Tính năng User Account Control giúp ngăn chặn phần mềm tiềm ẩn nguy hại tạo ra những thay đổi trên máy tính người dùng. Trong Windows Vista Ultimate, tính năng BitLocker Drive Encryption bảo vệ dữ liệu tốt hơn. Windows Vista cũng chứa đựng các cải tiến nổi bật cho Windows Media Player khi ngày càng nhiều người xem máy tính như trung tâm thưởng thức nội dung đa phương tiện.

Thiết kế đóng một vai trò lớn trong Windows Vista và các đặc tính như thanh tác vụ và vùng biên quanh cửa sổ mang một diện mạo mới hoàn toàn. Tìm kiếm được tập trung nhiều hơn và giúp người dùng tìm tập tin trên máy tính nhanh hơn. Nút Start thiết kế lại xuất hiện lần đầu tiên trong Windows Vista.

2009 đến nay: Windows 7 và tiếp tục

Cuối những năm 2000, mạng không dây xuất hiện rộng khắp. Khi Windows 7 được tung ra vào tháng 10-2009, máy tính xách tay đã bán chạy hơn máy để bàn và kết nối mạng ở các “điểm nóng” không dây công cộng trở nên phổ biến. Tính năng Windows Touch xuất hiện lần đầu tiên, cho phép người dùng sử dụng ngón tay để lướt web, lật ảnh, mở tập tin và thư mục. Người dùng có thể phát nhạc, video và ảnh từ máy tính ra hệ thống âm thanh nổi hay TV. Đến mùa thu năm 2010, Windows 7 được bán ra 7 bản/giây - hệ điều hành bán chạy nhất trong lịch sử.

Khôi Minh (Theo Vnunet, Microsoft)

Chia sẻ bài viết