Theo kế hoạch, ngày 1-1-2008, Bệnh viện Nhi đồng (BVNĐ) TP Cần Thơ phải tiếp nhận công tác điều trị nội trú từ khoa Nhi (50 giường) của Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ (Bệnh viện 30-4 cũ). Thế nhưng, từ đầu quý IV/2007, BVNĐ đã thường xuyên bị quá tải, nhiều khoa bệnh nhi (BN) phải nằm đôi (2 em/giường), cơ sở vật chất của BVNĐ nhỏ hẹp và xuống cấp. Liệu bệnh viện có “gánh” nổi lượng BN ngày một tăng?
BN lây nhiễm cũng nằm đôi
BVNĐ TP Cần Thơ hiện có 200 giường bệnh. Từ tháng 7-2007 trở về trước, vào lúc giao mùa hoặc có dịch sốt xuất huyết, BN điều trị nội trú tăng lên trên dưới 230 BN và tình trạng nằm đôi tập trung ở khoa Sốt xuất huyết và khoa Nội tổng hợp. Trong 3 tháng cuối năm 2007, lượng BN điều trị nội trú của BVNĐ tăng liên tục, cụ thể: tháng 9 có 222 ca, tháng 10 có 329 ca, tháng 11 có 339 ca và 13 ngày đầu tháng 12 đã có trên 150 BN điều trị nội trú.
 |
Khu nhà giặt, nhà vệ sinh công cộng, khoa Chống nhiễm khuẩn (vệ sinh, tiệt trùng dụng cụ bệnh viện) và bếp ăn từ thiện của BVNĐ nằm “quây quần” bên nhau. Ảnh: M.N |
Hơn 60% BN (trên dưới 70 em) điều trị nội trú đều mắc những bệnh lây nhiễm, như: tiêu chảy, viêm phổi, viêm hô hấp trên, bệnh tay- chân - miệng và bệnh viêm não mô cầu rất dễ bị lây chéo. Nhưng khoa Nhiễm của bệnh viện chỉ có 35 giường bệnh, nên BN luôn phải nằm 2 em/giường. Vào ngày 13-12-2007, khoa Nhiễm có 70 BN, trong đó có 2 em bị viêm não mô cầu và 1 em bị tiêu chảy có nhiễm HIV, các BN này bắt buộc phải sử dụng giường riêng. Thế là chị Trần Thị Bích Loan, điều dưỡng của khoa phải sắp xếp, kê ghế bố cho 3 BN bị bệnh tay - chân - miệng đã qua cơn nguy hiểm nằm đỡ. Bà Nguyễn Thị Mỹ, ở quận Bình Thủy, TP Cần Thơ (bà ngoại của BN Nguyễn Hà Huy, là một trong 3 em phải chuyển sang nằm ghế bố), nói: “Hôm trước, tôi đưa cháu tôi vào BVĐK thành phố theo đúng tuyến. Ở đó, con nít nằm viện ít hơn ở đây, nhưng không hiểu sao bác sĩ không cho cháu tôi nhập viện mà yêu cầu tôi đưa cháu xuống bệnh viện này?”.
Bác sĩ Phạm Thị Chinh, Trưởng Khoa Nhiễm, cho biết: “Từ đầu tháng 12-2007, Khoa đã phải hợp đồng thêm 2 điều dưỡng, nâng lực lượng lên 8 người để bố trí được 2 điều dưỡng tua/trực đêm. Trước đây, tua trực đêm chỉ có một điều dưỡng, chị em phải chạy lên, chạy xuống 2 tầng lầu để chăm sóc BN. Trường hợp có BN cần cấp cứu hoặc chuyển viện, điều dưỡng trực phải dùng điện thoại di động gọi điều dưỡng ở các khoa lân cận đến phụ tiếp”.
Còn nhớ, khi xảy ra dịch cúm gia cầm (năm 2003), thành phố đã khẩn trương đầu tư kinh phí để BVNĐ cơi nới, xây thêm 3 phòng bệnh ở tầng thượng của khoa Nhiễm để dành tầng giữa làm khu điều trị cách ly. Trong đó, ngoài phòng dành cho ê-kíp trực có 3 phòng điều trị cách ly, bên ngoài mỗi phòng có gắn bảng màu xanh, vàng, đỏ để phân biệt tình trạng bệnh. Phòng gắn bảng đỏ dành cho BN thở máy. Thân nhân không được vào nhằm đảm bảo chống lây nhiễm. Thế nhưng hiện nay, do lượng BN quá nhiều nên khu vực này sinh hoạt như khu bệnh thường, y tá hành chánh phải kê bàn làm việc ngoài hành lang để dành phòng cho BN. Mỗi phòng bệnh quy mô 3 giường, bệnh viện kê đến 5-7 giường. Bác sĩ Lê Hoàng Sơn, Giám đốc BVNĐ, cho biết: “Trong tình trạng này, nếu có ca nghi viêm phổi cấp thì vấn đề chống lây nhiễm là cực kỳ khó khăn!”.
Đầu tư “trên giấy”!
Theo kế hoạch của Sở Y tế, từ tháng 1-2008, BVNĐ TP Cần Thơ phải tiếp nhận điều trị BN nội trú thay cho khoa Nhi (50 giường bệnh) của BVĐK TP Cần Thơ. Khoa Nhi của BVĐK thành phố sẽ chuyển thành Khoa Sơ sinh.
 |
Con của hai chị Lê Thị Mỹ Huyền (bìa phải) ở huyện Cờ Đỏ và Trương Thùy Linh, ở quận Ô Môn bị tiêu chảy phải nằm chung một giường. Ảnh chụp tại khoa Nhiễm BVNĐ vào chiều 17-12-2007. Ảnh: M.N |
Để thực hiện chủ trương này, bác sĩ Lê Hoàng Sơn, Giám đốc BVNĐ và bác sĩ Nguyễn Hữu Dự, Phó Giám đốc BVĐK TP Cần Thơ, ký kết Hợp đồng số 277/CVBV vào ngày 28- 6-2007 về việc Hợp đồng khám chữa bệnh giữa BVNĐ TP Cần Thơ và BVĐK TP Cần Thơ. Nội dung như sau: “Đầu tháng 8-2007, BVNĐ đảm nhận thêm lượng BN nội trú (30 giường) từ BVĐK TP Cần Thơ, đến tháng 1- 2008 nhận tiếp 20 giường. BVĐK thành phố chỉ khám và cấp thuốc cho BN ngoại trú, đến tháng 1-2009, BVĐK TP Cần Thơ sẽ giao toàn bộ việc khám bệnh nhi ngoại trú cho BVNĐ TP Cần Thơ”.
Giữa tháng 11-2007, bác sĩ Nguyễn Hữu Dự cũng đã ký văn bản gởi Ban Giám đốc BVNĐ TP Cần Thơ nhắc BVNĐ đảm bảo tiếp nhận tất cả BN điều trị nội trú theo đúng tinh thần Hợp đồng số 277/CVBV. Bác sĩ Nguyễn Hữu Dự cho biết: “Khoa Nội tổng hợp của BVĐK TP Cần Thơ đã bị quá tải, bệnh viện phải lấy cơ sở vật chất của khoa Nhi để triển khai giường bệnh cho bệnh nhân nội, tránh tình trạng kê giường ngoài lành lang”. Về việc BVNĐ TP Cần Thơ đã quá tải, khi khoa Nhi của BVĐK TP Cần Thơ vẫn còn hoạt động, nhưng lại không tiếp nhận BN, bác sĩ Nguyễn Hữu Dự nói: “Khoa Nhi của BVĐK giảm còn 30 giường bệnh, nhưng thường có đến 40 BN điều trị nội trú. Do vậy, y, bác sĩ mới hướng dẫn người dân đưa con em đến BVNĐ TP Cần Thơ điều trị”. Khi thực hiện Hợp đồng số 277/CVBV, lãnh đạo hai bệnh viện chỉ tính đến phương án khoa Nhi của BVĐK thành phố sẽ bị quá tải khi từ 50 giường bệnh giảm xuống còn 30 giường bệnh. Do vậy, trong hợp đồng quy định: “Khi quá tải giường điều trị nội trú, BVĐK thành phố sẽ giới thiệu hoặc chuyển BN đến BVNĐ nhập viện”.
Hợp đồng số 277/CVBV được lãnh đạo hai bệnh viện thực hiện theo Công văn số 1110/CV-SYT do ông Lê Hùng Dũng, Giám đốc Sở Y tế TP Cần Thơ ký (ngày 25-5-2007) về việc “Thực hiện vị trí, chức năng, nhiệm vụ tổ chức của BVĐK thành phố”. Trong đó, lãnh đạo Sở Y tế chỉ đạo “Giám đốc BVĐK thành phố phối hợp với Giám đốc BVNĐ xây dựng kế hoạch có thời hạn cụ thể, từng bước thu hẹp điều trị nội trú tại khoa Nhi của BVĐK thành phố để chuẩn bị tiếp nhận cán bộ khoa Sản từ BVĐK Trung ương Cần Thơ đến”. Về vấn đề cơ sở vật chất của BVNĐ, ông Lê Hùng Dũng cho biết: “Thành phố có kế hoạch di dời và xây mới BVNĐ theo quy mô của bệnh viện chuyên khoa nhi cho vùng ĐBSCL”.
Từ nhiều năm qua, BVNĐ đã hoạt động trong điều kiện chờ thành phố quy hoạch bệnh viện mới. Theo đó, trước nhiệm vụ tiếp nhận BN điều trị nội trú từ BVĐK TP Cần Thơ, vào tháng 8-2007, bác sĩ Lê Hoàng Sơn đã có tờ trình gởi lãnh đạo Sở Y tế đề xuất thành phố đầu tư kinh phí khoảng 3,7 tỉ đồng thực hiện 3 công trình để có thêm khoảng hơn 1.000 m2 mặt bằng, gồm: xây mới nhà tiền chế tại khu căng tin, mở rộng khoa sơ sinh theo hướng cơi nới, tận dụng dãy hành lang mặt tiền và xây mới nhà tiền chế khu vệ sinh công cộng. Thế nhưng đến nay, kế hoạch này vẫn còn nằm trên giấy, trong khi BVNĐ đã bước vào thời điểm tiếp nhận toàn bộ BN nội trú từ BVĐK TP Cần Thơ. Trong kinh phí hoạt động năm 2008, bệnh viện đã được Sở Y tế duyệt cấp theo quy mô 250 giường bệnh, nhưng bệnh viện “không biết” sắp xếp 50 giường bệnh được tăng thêm chỗ nào?
Đừng để quá muộn
Ở ĐBSCL chỉ có BVNĐ TP Cần Thơ là bệnh viện chuyên khoa nhi, BVNĐ đã tiếp nhận nguồn BN không chỉ ở TP Cần Thơ mà còn ở các tỉnh lân cận. Trong năm 2006, BVNĐ đã dồn sức cho công tác chỉ đạo tuyến và đã mở được phòng khám vệ tinh ở BVĐK Ô Môn, Thốt Nốt và Phong Điền. Đồng thời, bệnh viện cũng được kinh phí đầu tư 2,6 tỉ đồng để tu sửa, nâng cấp 2 căn nhà phố là cơ sở vật chất của khoa Nội Tổng hợp và khoa Sốt xuất huyết. Tuy nhiên, nỗ lực này chỉ giải quyết được nhu cầu quá tải BN cho BVNĐ trong điều kiện khoa Nhi của BVĐK TP Cần Thơ còn hoạt động.
Thực tiễn xã hội đang phát sinh nhiều bệnh lây truyền qua đường hô hấp như viêm phổi, bệnh tay - chân - miệng; đồng thời bệnh sốt xuất huyết cũng diễn biến phức tạp hơn. BVNĐ TP Cần Thơ vốn không có cây xanh, 2/3 cơ sở vật chất là những căn nhà phố xây dựng từ trước năm 1975, mỗi dãy nhà có từ 4-8 phòng bệnh phải dùng chung một nhà vệ sinh và thiếu cửa sổ, thiếu khoảng không để thông gió. Với nhu cầu vệ sinh của thân nhân nuôi bệnh, bệnh viện phải lấy khoảng đất nhỏ ở góc bệnh viện để xây nhà vệ sinh công cộng. Hơn 20 năm qua, khu nhà vệ sinh này chưa được nâng cấp. Điều đáng nói là do bệnh viện chỉ còn phần mặt bằng này, nên bếp ăn từ thiện, nhà giặt và khoa Chống nhiễm khuẩn (bộ phận tiệt trùng dụng cụ bệnh viện) cũng bố trí “quây quần” bên nhà vệ sinh công cộng. Trong môi trường này, nếu lượng BN của TP Cần Thơ và các tỉnh lân cận tập trung về đây, thì không chỉ có vấn đề quá tải mà tình trạng ô nhiễm, nhiễm khuẩn ở BVNĐ TP Cần Thơ là điều không thể tránh khỏi.
Đình Khôi