14/11/2009 - 21:18

Ông Tư Đò

* Truyện ngắn của NHẬT HỒNG

Nhà tôi đến trường học phải qua một con sông. Con sông rộng đối với tôi. Một trưa bọn nhóc chúng tôi làm gan cởi quần phóng tót xuống lội qua sông. “Ai lội qua trước làm đại ca!”. Tôi chìm xuống nổi lên nhiều lần mới tới được bờ, uống nước đầy bụng. Trong khi đó bọn nhóc đã qua được ngồi trên bãi bùn cười ngắt nghẽo: “Cố lên! Cố lên!”.

Con sông ấy đã để lại dấu ấn sâu trong ký ức tôi nhất là hình ảnh ông chèo đò. Ông gầy, da xạm nắng tóc bạc lưa thưa, có nụ cười móm mém lòi chiếc răng cửa duy nhứt còn lại trên hàm. Người ta thường gọi ông là ông Tư Đò. Đò đưa ế ẩm, ngoài bọn trẻ tụi tôi, ngày chỉ le hoe vài người khách. “Đưa để giải buồn, đưa để đợi gánh hát về!”. Ông lại cười móm mém, nụ cười gần gũi với bọn trẻ con. Ra giêng, nhiều gánh hát lần lượt về xã. Hát bội hay hát cải lương ông Tư đều “vô mánh”. Trời vừa xế dài trống đánh vang dội, lòng người nôn nao, đò ông Tư bắt đầu có khách. Khách quen lối xóm như bọn tôi thì có tiền cũng đi, không tiền cũng đi miễn trút vào túi nhái vài nắm gạo cho ông sống cầm cự. Không tiền, gạo thì để đó, chừng nào có trả cũng được. Ông Tư được trời phú cho ông giọng hò hát hay. Ông hò hát được giọng Nam, giọng Huế, ngâm thơ Lục Vân Tiên, lẩy Kiều... Trong làn hơi khàn khàn, trong trong đục đục có sức hấp dẫn lạ.

Tôi không mê hò hát mà chỉ mê nghe ông kể chuyện. Chuyện ông kể từng khúc từng đoạn theo nhịp chèo khoan nhặt. Nay kể một đoạn, vài ba hôm sau một đoạn có đôi khi cả tháng trời ông mới kể tiếp. Vậy mà, một thời thơ ấu tôi ráp nối lại được khá nhiều chuyện của ông kể.

***

Ông Tư Đò kể:

- Nắng chếch qua ngọn cây, mùi máu tanh hôi bốc lên nồng nặc, thây người nằm ngổn ngang trên bãi chiến trường. Chiếc kiệu nhỏ có vài người khiêng từ từ hạ xuống giữa đám tử thi. Người nằm chết nhiều kiểu cách khác nhau, chỉ duy nhứt có một xác chết khác thường: đứng sững, trên thân người mang đầy tên, giữa lồng ngực một ngọn giáo đâm trổ ra sau lưng, máu khô đặc quánh. Vẹt tấm màn kiệu một người đàn bà đẹp lộng lẫy bước ra đi đến người chết đứng. Thật gần, hai mặt chạm nhau, bỗng máu trong khóe miệng người chết trào ra nhểu thành giọt xuống đất. Hai cặp chân mày rậm dựng ngược kéo hai tròng mắt trợn lên, hàm râu quai nón vảnh ra tua tủa như rễ tre. Người đàn bà đẹp quỵ xuống khóc kể:

- Tướng công ơi! Tướng công mãi mãi là đấng anh hùng trong lòng thiếp, đã kéo thiếp từ đống bùn nhơ thành mệnh phụ phu nhân, giúp cho thiếp ân đền oán trả rỡ mặt với mọi người. Vậy mà, nay... Trời ơi! Tội này do thiếp gây ra, thiếp đã làm liên lụy đến người. Hồ Tôn Hiến giết tướng công. Thiếp hứa sẽ chết theo chàng. Đây là ba lạy tạ từ tướng công sống khôn thác thiêng về chứng giám cho lòng thiếp.

Người đàn bà đứng dậy vuốt lên hai con mắt trợn ngược của người chết. Lạ thay, hai mí mắt khô cứng ấy từ từ khép lại và những giọt máu thôi rỉ ra, chiếc thân trơ cứng từ từ ngã chúi về phía người đàn bà. Nàng ôm lấy cái xác khóc nức nở...

Gió ngựa cuốn bụi mờ lại mang người đẹp ấy đi. Đêm ấy, Hồ Tôn Hiến mở tiệc linh đình buộc người đẹp đàn hát. Nàng đàn mà máu rỏ trên năm đầu ngón tay.Thấy không thể chiêu dụ được giai nhân bằng lời lẽ, Hồ Tôn Hiến cưỡng bức nàng để thỏa lòng tà dâm. Nàng tìm cách trốn ra được khỏi thành. Nửa đêm, thuyền đến ngã sông Tiền Đường, giai nhân nhìn trời nhìn sao rồi gieo mình xuống sông lạnh ngắt...

- Gieo mình xuống sông mà không chết, bởi nghiệp của giai nhân chưa dứt. - Ông Tư nói.

- Người nhảy xuống sông sống bằng cách nào?- Tôi hỏi.

- Được người thợ chài vớt đem vô chùa tu.

- Vậy là yên đời giai nhân!

- Chưa yên, chuyện con dài dòng lắm. Hôm nào rảnh ông sẽ kể tiếp, còn nay ông bận chèo đi rao hát.

Tôi ấm ức trong lòng, nhưng phải chờ đến hai hôm vì ông Tư bận đi tập tuồng. Ông già Tư chèo đò bỗng dưng thành kép hát ngang xương. Gánh hát về xóm, đang diễn vở tuồng có ông lái đò ngâm thơ Lục Vân Tiên mà người đóng vai này đi về quê lên không kịp. Ông bầu gánh hát thấy ông Tư có giọng ngâm thơ tốt, còn hay hơn kép hát nên ông bầu chọn ông Tư diễn một đoạn của ông lái đò. Thật là phù hợp, tướng ông Tư cũng gầy gầy ốm ốm rất giống nghệ sĩ. Sau hai ngày tập điệu bộ vai tuồng, ông Tư ra diễn. Đêm ông lên sân khấu, bọn tôi buồn ngủ nhíu con mắt mà cũng ráng coi cho bằng được. Hạ màn đổi cảnh, đờn cò, đờn một dây trổi lên làm tôi thắt theo ruột gan. Trong cánh gà ông già lọm khọm đi ra, khuỷu tay máng chiếc nón lá, đi chầm chậm đến bờ sông, dưới bến có chiếc đò đang neo đậu. Vừa chợt nhận ra ông Tư bọn tôi đồng thanh thét lên: “Ông Tư kìa! Ông Tư kìa!”. Cả đám người chen lấn nhau giành coi cho rõ mặt. Chen lấn nhau đến nỗi xô ngã vách tol dùng che chắn trong và ngoài của gánh hát. Xui rủi sao, cạnh nhọn miếng tol đâm tét đầu một thằng nhỏ trong bọn tôi. Máu ra nhiều, nó hoảng hốt la làng chói lói làm náo động cả gánh hát. Phải dừng hát vài mươi phút băng bó vết thương cho nó. Sau phần cáo lỗi của bầu gánh, vở diễn được tiếp tục.

Trở lại cảnh cũ, người nhắc tuồng thúc giục ông Tư đến lần thứ ba, ông mới từ từ đi ra. Nhưng lần này ông Tư không có bộ râu. Bọn tôi la hét ầm ĩ, thấy ông Tư sường sượng đôi giây rồi ông vẫn diễn tuồng bình thường. Ông Tư diễn làm cho bọn tôi phục lăn, khán giả mê thích. Nhưng phần ông Tư bị bầu gánh cự nự quá trời: “Tại sao ông không mang râu?”. “Tại... trong khi xả hơi tôi lột bộ râu ra để trên thùng cây kế bên, ai ngờ con mẹ bán cháo lòng vô lân la nói chuyện, ngồi lên bộ râu dính vô mông con mẻ mang ra ngoài luôn. Tới giờ diễn tôi quýnh quáng tìm không gặp, người nhắc tuồng hối thúc đành phải ra đại chớ sao!”.

Ông bầu bỏ qua. Nhưng chì chiết: “Ông Tư ơi! Ông Tư...”.

***

Hai hôm sau ông Tư chèo đò kể tiếp câu chuyện:

- Một hôm, có vị quan huyện đến bến sông nơi giai nhân trầm mình lập chay đàn giải oan cho người bạc mệnh. Vô tình người ở gần chùa ghé coi thấy bài vị đề tên: Vương Thúy Kiều, người này chen vô báo tin cho biết: Vương Thúy Kiều còn sống.

Cuộc tao ngộ đầy nước mắt sau mười lăm năm lưu lạc. Kim Trọng mừng khóc, nước mắt dầm dề như mưa tháng bảy, Kiều khảy lại khúc đàn năm xưa ở hiên Lãm Thúy. Mà ngộ nghen! Sau mười lăm năm phong trần mà sắc đẹp người đàn bà không giảm, mà ngược lại còn tăng: “Hoa tàn mà lại thêm tươi. Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”(*). Đàn đứt dây còn nối lại, tình dang dở có khi cũng làm lành, Kiều thuận tình cùng Kim Trọng tổ chức đám cưới. Cái đám cưới thật ngộ nghĩnh: Cưới mà đêm động phòng tân lang tân nương không chung chăn gối. Trong giờ hợp cẩn Kim Trọng nhắc lại chén rượu và lời thề bồi mười lăm năm trước còn ăm ắp hương tình và đầy luyến ái. Không ngờ Kiều cự tuyệt bằng cách khôn khéo nhắc lại những nỗi đau trong đời, nói với Kim Trọng: “Lại như những thói người ta. Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa. Cũng là giở nhuốc bày trò. Còn tình đâu nữa, mà thù đấy thôi!”. Chàng Kim còn đang dửng dưng, Kiều lau thêm khăn thấm nước lạnh ngắt: “Cửa nhà dù tính về sau. Thì còn em đó, lọ cầu chị đây!”. Kim Trọng chợt tỉnh hẳn, ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu đồng ý với Kiều: “Bấy lâu đáy bể mò kim. Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa? Ai ngờ lại hợp một nhà. Lọ là chăn gối, mới ra sắc cầm!”.

Nửa đêm Kim Trọng uể oải đi về phòng, Thúy Vân hỏi: “Đêm hợp cẩn mà chú rể không ngủ với cô dâu sao?’’. Kim Trọng lặng lẽ ôm Thúy Vân vào lòng, trong giấc ngủ chập chờn thấy mình ôm Thúy Kiều thật là hạnh phúc.

Tôi ngồi dưới đò vảu lỗ tai nghe chuyện đến khi Kiều đuổi Kim Trọng đêm tân hôn, thắc mắc hỏi:

- Ông ơi! Kim Trọng bị đuổi có tức không?

- Thôi để bữa khác kể tiếp, hôm nay tới đây đủ rồi! Ông còn phải đi rao hát nữa chớ!

Tôi chờ... Hôm sau chưa đến thì chiều đó ông Tư chở đám con nít rao quảng cáo cho gánh hát. Lộp chộp chìm ghe, thằng rao gánh hát không biết lội, ông Tư hì hục kéo vô bờ, cả hai uống nước đầy bụng, may không chết! Đêm đó, ông Tư về cảm lạnh không chèo đò, không đi rao hát được. Gánh hát ế, mưa dầm.

***

Tôi nghe ông Tư kết thúc chuyện không hay, không hiểu gì hết, mà nhớ hoài. Vào những năm xa nhà lên tỉnh học, nhớ dòng sông là nhớ đến ông Tư, nhớ ông Tư là nhớ đến người chết đứng, nhớ giai nhân có bàn tay vuốt đúng trái tim. Rồi một chiều nọ người dưới quê lên cho hay: Ông lái đò bị giặc giết chết. Tôi chưng hửng. Vỡ lẽ ra, ông Tư là cán bộ tuyên giáo Huyện ủy công tác hợp pháp để xây dựng cơ sở cách mạng chuẩn bị cuộc Đồng khởi. Bị điềm chỉ, cảnh sát ập vô bắt lúc ông đang ngồi ăn cơm. Ông bình tĩnh lấy áo xuống đò theo đám lính. Khi xuống đò ông nói: “Để tui chèo cho, mấy chú không quen chèo lật bật chìm xuồng chết cả đám!”. Bọn lính thấy ông có vẻ thật thà để cho ông chèo. Xuồng chở đầy lính súng ống lỉnh kỉnh khẳm mẹp, vừa chồm ra giữa sông, nương theo ngọn sóng ông Tư lắc mạnh một cái xuồng lật úp, ông tót xuống nước lặn vô bờ mất dạng. Lính chết chìm ba bốn mạng, tên nào giỏi bơi lội quăng súng đạn mới thoát được. Sau đó, ông Tư đổi địa bàn công tác. Bọn ác ôn cũng tầm ra bao vây bắt ông. Lần này chúng cẩn thận hơn, trói ông bằng khăn choàng tắm. Thân ông Tư gầy khẳng khiu, khăn choàng tắm trơn nên ông vừa đi vừa lúc lắc vuột mối, ông vẫn kẹp trên lưng đợi khi qua cầu khỉ ông phóng tót xuống kinh chém vè trong đám cỏ nga. Bọn lính ném hàng chục trái lựu đạn xuống nước, ông tức nước chết dưới lòng kinh. Lính không thể tìm thấy xác ông Tư Đò nhưng bà con đã tìm được xác ông đem về chôn cất.

Nhiều năm qua tôi nhớ mãi những câu chuyện kể của ông Tư, thương dòng sông, hay thương chính bản thân ông lái đò, tôi không thể nào tách bạch được! Nhưng chiếc răng cửa và nụ cười móm mém của ông Tư luôn có trong trái tim tôi.

Tuổi tôi bây giờ cỡ tuổi ông chèo đò ngày xưa. Ông Tư ơi! Hồn của ông ở đâu bây giờ? Dòng sông và con đò còn đó, nhưng đò thay bằng trẹt chạy bằng máy rồi!

...............

(*) Thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.

Chia sẻ bài viết