* Tăng cường quản lý, giám sát hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước
(TTXVN)- Sáng 2-11, các đại biểu tiếp tục thảo luận tại Hội trường về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2010 và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2011.
Các ý kiến phát biểu tại phiên thảo luận đều thể hiện sự đồng tình cao với những tổng kết, đánh giá của Chính phủ về tình hình thực hiện kinh tế, xã hội trong năm 2010 và những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế- xã hội năm 2011. Mặc dù năm 2010 còn gặp nhiều khó khăn, song với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, với sự nhanh nhạy trong chỉ đạo, điều hành và quyết liệt trong tổ chức thực hiện nên đất nước đã đạt được những thành tựu khá toàn diện, cơ bản hoàn thành mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu đề ra. Nhiều ý kiến đánh giá cao sự nhạy bén của Chính phủ trước diễn biến mới của tình hình, với những biểu hiện gia tăng bất ổn kinh tế vĩ mô, đã chuyển hướng từ ưu tiên tăng trưởng kinh tế sang ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát ngay từ đầu năm 2010; ban hành Nghị quyết số 18/NQ-CP với nhiều giải pháp cụ thể, điều hành chính sách tiền tệ cương quyết, nhờ đó đã kiểm soát khá tốt chỉ số giá tiêu dùng...
Trong ý kiến phát biểu của mình, đại biểu Lò Văn Muôn (Điện Biên) khẳng định hiện các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã và đang được hưởng nhiều chính sách ưu tiên đầu tư phát triển của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế việc thu hẹp dần khoảng cách giữa miền núi với miền xuôi vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra. Đại biểu cho rằng đã đến lúc cần xem lại cách thức và mức độ quy mô đầu tư của Nhà nước cho các vùng này.
Về thanh tra, giám sát, đối với các tổng công ty nhà nước nói chung, Bộ trưởng Vũ Văn Ninh cho biết từ năm 2007-2009, Bộ Tài chính có báo cáo tổng hợp hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước và các tập đoàn, báo cáo với các cấp có thẩm quyền. Trên cơ sở báo cáo của Bộ Tài chính và các bộ, ngành, Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ đã có rất nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện việc củng cố hoạt động của các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước. Tiêu biểu là việc sửa đổi Nghị định 199 về quản lý tài chính với công ty nhà nước và phần vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác; trong đó có một số sửa đổi quan trọng. Về công tác giám sát, Vinashin hoạt động theo mô hình tập đoàn từ giữa năm 2006, đến đầu năm 2007, Bộ Tài chính đã tổ chức một cuộc thanh tra, mỗi năm tiếp theo từ đó đến nay đều có các cuộc kiểm tra về quản lý vốn và tài sản. Căn cứ vào kiến nghị của Bộ Tài chính và các bộ, ngành, ngay từ năm 2008, Thường trực Chính phủ đã có nhiều cuộc họp, ra nhiều văn bản chỉ đạo rà soát các hạng mục đầu tư, tập trung vào các ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính; sắp xếp, cắt giảm các dự án chưa thực sự cần thiết, chưa sát với mục tiêu đề ra; tập trung vào các dự án trọng điểm, có chiến lược phát triển và đóng tàu phục vụ dầu khí, đánh bắt xa bờ, tàu sông...
Theo Bộ trưởng Vũ Văn Ninh, chủ trương tách bạch quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp, giao quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm, không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là nhất quán và đúng đắn, đã được khẳng định trong thiết chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, cũng cần phải rút ra bài học: Khi phân cấp, phân công và giao quyền thì phải phù hợp với năng lực và trình độ quản lý của cán bộ doanh nghiệp, đề cao trách nhiệm của doanh nghiệp. Đại diện các chủ sở hữu cần làm rõ khi có vấn đề phát hiện ra. Trong thực tế có những vấn đề chỉ phát hiện ra qua thanh tra, kiểm tra, mà như vậy thì thường phát hiện ra sau (ví dụ việc mua tàu, xây dựng hệ thống cảnh báo...). Bộ trưởng đề nghị cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý và phân định rõ hơn chức năng và trách nhiệm của từng cấp trong việc quản lý doanh nghiệp; tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát và có chế tài đồng bộ, đủ mạnh để các doanh nghiệp phải chấp hành và thực hiện nghiêm các kiến nghị của cơ quan thanh tra, kiểm tra. Bộ trưởng cũng cho biết thêm, theo số liệu nắm được từ Hội đồng Quản trị Vinashin, đến 30-6-2010, số nợ của Vinashin là 86.031 tỉ nhưng tài sản trên sổ sách là 103.774 tỉ. Như vậy, số tiền vay này đang nằm trong các tài sản, dự án. Hiện Chính phủ đang yêu cầu các cơ quan kiểm toán đánh giá lại các tài sản này.
Liên quan đến vấn đề môi trường khu vực khai thác bôxit ở Tây Nguyên, nhất là sau sự cố hồ bùn đỏ ở Hungary và dư luận từ cử tri và một số nhà khoa học, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên báo cáo làm rõ thêm một số vấn đề trước Quốc hội.
Bộ trưởng cho biết, Bộ đã thành lập Hội đồng thẩm định gồm 21 người, nhiều hơn các hội đồng thẩm định khác 3 lần. Quan trọng hơn, trong Hội đồng này bao gồm 18 nhà khoa học là các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, chủ yếu là các Viện trưởng, viện Phó, giám đốc các trung tâm khoa học, hiệu trưởng, hiệu phó các trường đại học. Đằng sau họ là hệ thống các viện nghiên cứu, các trường đại học, bao gồm tất cả các lĩnh vực khoa học liên quan đến công tác bảo vệ môi trường của hai nhà máy này. Bộ đã tổ chức đoàn công tác của Hội đồng tại Australia (nơi có công nghệ xử lý hiện đại), Brazin (có địa hình, đặc tính mỏ giống nước ta) và Trung Quốc (nước chuyển giao công nghệ cho Việt Nam) để học tập kinh nghiệm; chuyển giao các chỉ tiêu, tiêu chuẩn, tiêu chí từ khâu khai thác, chế biến, xử lý bùn đỏ để áp dụng trong thẩm định Báo cáo. Một tổ tư vấn khoa học cũng đã được thành lập, gồm những tiến sĩ, các nhà khoa học.
Trước những quan ngại về độ an toàn, nhất là khả năng phá rừng Tây Nguyên, theo Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên, theo Luật khoáng sản, toàn bộ rừng đặc dụng, rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, các khu di tích lịch sử, khu văn hóa dân tộc nhất thiết không được cấp phép khai thác mỏ. Ở giai đoạn thí điểm này, chỉ cho khai thác những nơi chủ yếu là dưới mặt đất 50-70cm, không có cây mọc được, hoặc chỉ có cây bụi gai và cây lùn. Bộ trưởng nhấn mạnh: Trong mục tiêu đặt ra có kết hợp khai thác với trồng rừng, tức là mục tiêu kép, có tính đến quy trình trồng rừng, quy trình phục hồi, các trung tâm gây giống... Bộ trưởng cho biết, trữ lượng bôxít Tây Nguyên theo đánh giá khoảng 11 tỉ tấn, nhưng lần này chỉ được khai thác vài chục triệu tấn.
Xung quanh vấn đề bùn đỏ, trong Báo cáo đánh giá tác động môi trường đã nghiêm cấm để nước xung quanh chảy vào hồ bùn đỏ. Để giải quyết điều này thì một hệ thống mương sẽ được làm để hứng toàn bộ nước. Lưu lượng nước ở đây cũng đã được lường trước yếu tố biến đổi khí hậu. Bùn đỏ là khu xử lý chất thải công nghiệp độc hại, độ thấm đã được tính đến mức an toàn nhất. Viện vật lý địa cầu cũng đã vào đo từ nhiều năm nay và xác định độ động đất ở đây tối đa là đến cấp 5, yêu cầu trong thiết kế là đến cấp 7, cao hơn 2 cấp, đã là tiêu chuẩn của thế giới, không thể cao hơn. Viện địa chất và khoáng sản Việt Nam cũng đã khẳng định khu vực hồ bùn đỏ này không có đứt gãy. Trong báo cáo đánh giá tác động cũng đã đề cập đến khả năng vỡ hồ và có phương án xử lý: Chia thành 8 hồ nhỏ, trồng cây trên bùn đỏ theo mô hình của Brazil. Đến hồ cuối cùng nếu xảy ra vỡ đã có diện tích khoảng 50ha để chứa. TKV đang nghiên cứu giải pháp về điều kiện kỹ thuật của diện tích này, đảm bảo an toàn tuyệt đối, không thể để bùn đỏ tràn.
Cũng về vấn đề bảo vệ môi trường, đại biểu Trần Văn Tấn (Tiền Giang) đánh giá ô nhiễm môi trường hiện vẫn đang là vấn đề bức xúc, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này còn thấp. Đại biểu nêu những dẫn chứng cụ thể về ô nhiễm nguồn nước, đất đai, không khí tại các địa phương. Nhiều địa phương tình trạng nước thải sinh hoạt trong thành phố, đô thị và các khu công nghiệp xả trực tiếp ra các khu kênh mương sông hồ. Trong Báo cáo của Chính phủ cũng nêu tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn vệ sinh môi trường vẫn là 50%. Việc lạm dụng sử dụng hóa chất trong sản xuất nông nghiệp đã làm cho đất nước ô nhiễm ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống người dân; vấn đề ô nhiễm không khí diễn ra ở khắp các đô thị trong cả nước, đặc biệt là các nút giao thông, công trường xây dựng, khu sản xuất công nghiệp, các làng nghề...
Để đảm bảo các chỉ tiêu bảo vệ môi trường trong những năm tiếp theo, đại biểu đề nghị Chính phủ cần có biện pháp hữu hiệu để thực hiện từng chỉ tiêu cụ thể và tập trung nguồn lực để thực hiện; tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục doanh nghiệp và người dân trong việc bảo vệ môi trường, xem đây là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên để phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đại biểu đề nghị kiên quyết không cấp phép cho các dự án mới nếu không đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường; rà soát lại cơ chế quản lý Nhà nước của các cấp, các ngành và tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ sở doanh nghiệp sản xuất nhằm chấn chỉnh kịp thời các sai phạm; cần có những quy định bồi thường thiệt hại về môi trường đối với chủ doanh nghiệp cơ sở sản xuất; trong trường hợp cố tình gây ô nhiễm thì phải xử lý hình sự. Đại biểu đề nghị năm 2011, Quốc hội cần có Nghị quyết giám sát sát về môi trường trong khu kinh tế và làng nghề.
* Trọng tâm của Phiên thảo luận chiều 2-11, Kỳ họp thứ tám Quốc hội (QH) khóa XII về tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 và Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2011 vẫn là những ý kiến xung quanh sự cố Vinashin và các biện pháp tăng cường giám quản hoạt động của các Tập đoàn, Tổng Công ty Nhà nước. Đáng chú ý, một số Đại biểu (ĐB) đề nghị QH cần nhìn nhận một cách toàn diện, đầy đủ về vụ việc Vinashin để tránh cái nhìn phiến diện.
Không đồng tình với ý kiến của một số ĐBQH cho rằng Vinashin u ám và thất vọng, ĐB Thiều cung cấp thông tin: Cơ quan điều tra đã làm việc nghiêm túc và tất cả những cá nhân sai phạm đang được xử lý nghiêm minh. Ủy ban Kiểm tra Trung ương vẫn đang tiếp tục làm rõ trách nhiệm của những bộ, ngành liên quan. Trong tháng 11, Vinashin sẽ xuất xưởng con tàu 53 ngàn tấn.
Cũng trong buổi thảo luận chiều nay, nhiều ý kiến của các ĐBQH phát biểu xoay quanh nội dung cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Đại biểu Nguyễn Đăng Trừng (thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng, các Tập đoàn và Tổng công ty Nhà nước làm ăn kém bởi ba nguyên nhân, trong đó có vấn đề quản trị doanh nghiệp không hiệu quả. ĐB Nguyễn Đăng Trừng đề nghị cần tập trung cải cách, quan tâm đặc biệt đến vấn đề này, tránh triệt để tình trạng Tổng Giám đốc các Tập đoàn kinh tế và Tổng Công ty Nhà nước coi tài sản của nhà nước là của trời cho, chi tiêu sử dụng thoải mái mà không cần tính toán hiệu quả. ĐB Trừng cũng kiến nghị Chính phủ phải kiên quyết đặt Doanh nghiệp Nhà nước trong môi trường cạnh tranh chung, bởi đây là biện pháp hiệu quả nhất đề cải thiện tình hình kinh doanh của các Tập đoàn kinh tế và Tổng Công ty Nhà nước.
Đồng tình với quan điểm cho rằng cần tăng cường thiết chế giám sát đối với doanh nghiệp, ĐB Vũ Viết Ngoạn (Khánh Hòa) kiến nghị cần có cơ quan đầu mối quản lý giám sát vốn của nhà nước tại các Tập đoàn kinh tế và Tổng Công ty.
Đây cũng là buổi thảo luận cuối của Kỳ họp về nội dung này.