17/07/2010 - 21:12

Người thợ vẽ

Truyện ngắn NHẬT HỒNG

Có người gọi hắn là “Năm hai xị”, có người trân trọng hơn với cái tên chú Năm họa sĩ. Người ta không rõ cho lắm vào năm đó có người đàn ông trạc tuổi trên ba mươi vai đeo cái ba lô cũ đã ngả màu bạc phếch, đầu tóc rối bù, râu ria xồm xoàm, đứng đợi đò sang sông. Chiếc đò bằng ghe tam bản của dì Tư nước ngập linh đinh vì đã quá tuổi. Mỗi lần sang sông, khách phải tát sồn sột tiếp chủ đò.

Dì Tư đưa đò hôm nay đi ăn giỗ trên đầu xóm, con đò buộc dây nằm lặng lẽ dưới đầu cầu. Khách bên kia réo gọi mãi rồi bỏ đi. Nắng trưa ngằn ngặt, hắn ngồi dưới gốc dừa đợi đò ngủ ngon lành. Bến đò cũng là bến sông nhà của Tư Đạt.

 

Tư Đạt còn có cái tên “Đạt Chí Phèo”. Từ lúc mãn nghĩa vụ ở chiến trường K trở về, tính tình Đạt bỗng trở nên thay đổi. Một lần, sau khi nóc vô vài xị rượu. Tư Đạt ôm cái dao phay bản lớn như đoản đao xông vào sân nhà Chín Tài chửi bới:

- Cái đồ cho vay nặng lãi, cái thứ sống trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Mày ra đây cho tao biểu.

Chín Tài run bần bật đóng cửa không kịp khóa chốt tọt ra sau vườn biến mất. Người láng giềng nắm kéo khuyên can Tư Đạt.

- Thôi bỏ qua đi Chú Tư! Chín Tài mang tiếng là cho vay nặng lãi nhưng nó còn nhẹ tay, từ mười hai, mười lăm, nay còn bảy tám. Tư Đạt dịu dần cơn thịnh nộ ra về, trước khi đi còn quay lại dứ dứ cái mũi dao phay vào nhà Chín Tài.

-Lần này tao tha cho, nếu còn cái thói hiếp người trong cơn thắt ngặt tao ruồng hết cả nhà.

Có rượu vào, Tư Đạt làm cho người ta phát ớn vì cái tính liều. Năm Tư Đạt mười chín tuổi, cũng vào đợt tuyển đi nghĩa vụ, thanh niên trong xóm có người chạy đi xin xỏ cho được hoãn lại, được ở chỗ yên ấm. Còn Tư Đạt mới vừa sáng sớm đi ra Ban chỉ huy quân sự xã viết đơn tình nguyện đi nghĩa vụ. Bỏ túi tấm giấy quyết định trúng tuyển Tư Đạt đi bộ từ đầu ấp về mặt mày nở nang với đám thanh niên cùng lứa thập thò ở bệ cửa. Ngày lên đường Tư Đạt còn tuyên bố với Đoàn thanh niên ở UBND xã :

-Ông cha ta đã hy sinh xương máu để có được độc lập, nay mình phải có trách nhiệm góp một phần gìn giữ đất nước.

Sau thời gian huấn luyện, Tư Đạt được vào C2 thuộc Tiểu đoàn Tây Đô, đóng ở tỉnh Công Pông Chơ Năng. Một hôm bị Pôn Pốt phục kích, ụ súng đại liên ở gò đất cách vài mươi mét làm cho đội hình chững lại. Tư Đạt trườn lên: “Để tao”. Nói rồi ôm B40 bò vòng qua bụi rậm : Pình... Một tiếng nổ lớn cột lửa nhá lên. Hầm sập. Ổ súng im phăng phắc. Đồng đội tiến lên thấy Tư Đạt nằm vắt ngang gốc cây, đầu loáng máu. Tư Đạt được đưa về phía sau chữa trị. Sau nhiều tháng nằm bệnh viện Tư Đạt được giải ngũ. Nhưng do vết thương ở đầu nên thần kinh của Tư Đạt bất thường. Trưa nắng gắt, người ta nói chuyện lớn Tư Đạt cũng căng thần kinh; nhậu vô vài xị, ai ức hiếp ai, chuyện hồi năm xưa, năm nẳm Tư Đạt nghe được cũng căng thần kinh chửi bới ỏm tỏ...

* * *

Con lá lóc nướng trui vừa lôi ra khỏi rơm thơm phưng phức, Tư Đạt bảo bạn nhậu :

-Tụi bây lo rượu, tao đi hái vài cọng rau cải trời làm bổi, nhập tiệc đó nghen!

Khi cầm rổ rau đi ngang thấy một người nằm dưới gốc cây dừa. Tư Đạt nghĩ bụng: Người gì mà vô tư thế? Chắc là khách lạ? Dân làm mướn không phải! Đi du lịch không phải. Đi xin càng không phải ? Tư Đạt hỏi trổng:

-Đợi đò hả ?

-Ừ!

Tư Đạt nhìn con đò bên kia sông nói bâng quơ:

-Biết nhậu hông? Lên làm vài ly, có đò qua sẽ đi.

- Được!

Vài vòng rượu, thấy người khách cũng có vẻ dễ mến, nói năng nhã nhặn, Tư Đạt hỏi lần về nghề ngỗng, quê quán...

-Tôi thứ Năm tên Trần Văn Thơ quê ở Bình Thủy, Cần Thơ, nghề họa chân dung.

Vừa nói anh đưa ra tấm hình vẽ dang dở trên vải lụa cho Tư Đạt xem. Nét vẽ rất sắc sảo hơn hẳn thợ ở chợ này. Tư Đạt hỏi nhóng :

-Có phải ông vẽ không cha nội?

Khách cười vô tư :

- Rồi sẽ biết sau.

Chén qua chén lại rượu nồng thắm thiết trên môi, giờ mới biết ông bạn thứ Năm, Năm Thơ hứa ở lại họa giùm cho ba của Tư Đạt một tấm hình để làm kỷ niệm. Sau ba ngày đêm cật lực, Năm Thơ chăm chú lên giá vẽ, bức chân dung trên vải lụa mỉm cười với con cháu, đôi mắt long lanh như muốn giao tiếp với người đối diện, y như ba của Tư Đạt ngày còn sống. Tư Đạt phục tài của Năm Thơ, dẫn đi giới thiệu khắp đầu trên xóm dưới, người ta níu kéo vào mâm vào quán, nhưng Năm Thơ chỉ uống đến nửa lít là lăn ra ngủ, ai nói gì cũng thôi, ai làm gì cũng mặc. Buổi sáng Năm Thơ quảy ba lô lên vai ra đi. Tư Đạt theo nài nỉ:

- Anh Năm à! Đi đâu cho xa, ở lại nhà tôi, tôi sẽ kiếm mối cho anh vẽ lây lất qua ngày được mà!

Sự chân tình của Tư Đạt cũng nắm níu được bước chân của Năm Thơ. Tư Đạt vốn ở địa phương lâu đời, ai cũng hiểu, cũng biết, nên chỉ vài hôm quảng cáo sơ sơ khách đem hình đến vẽ hàng chục tấm. Năm Thơ ngày đêm miệt mài bên giá vẽ. Buông cọ, viết ra ra lại gật gù gật gưỡng bên mâm rượu. Từ ngày có Năm Thơ làm tri kỷ, Tư Đạt thần kinh như dịu lại, không còn căng như lúc trước. Có khi nhậu xong, Tư Đạt không vô buồng ngủ với vợ mà ra ngoài hiên nằm ngủ với Năm Thơ, khắng khít như anh em. Khách hàng ngày một thêm đông bởi Năm Thơ vẽ sắc sảo mà giá cả rất bình dân. Nghe ai than nghèo, Năm Thơ hạ giá, hoặc chỉ trả một tiệc “cóc ổi” là đủ. Tư Đạt phục Năm Thơ sát đất: có lần người khách mang tấm hình ố hết trọi, không nhận dạng được chỉ còn vết mờ đen trắng. Ông khách nài nỉ:

-Chú họa sĩ ơi! Gắng giúp cho tôi, đã nhiều nơi không chịu giúp. Thương cho Ba tôi, ngày còn sống đầu tắt mặt tối, làm lụng vất vả để nuôi đám con, đùng một cái ông ngã lăn ra chết, không có hình ảnh nào cả, chỉ có tấm này.

Tư Đạt nói thêm vào:

-Anh Năm ơi gắng giúp đi. Lúc sinh tiền chú Bảy thật đáng thương lắm... Năm Thơ thầm nghĩ một lúc:

-Anh hãy tả tóc tai, mặt mũi, tướng tá, tuổi tác cả đến tính nết, sở thích của ba anh cho tôi nghe. À! Còn điểm này! Ông thân của anh biết nhậu hay không? Mà nhậu được mấy lít? Nói luôn.

Đêm ấy, Năm Thơ ngồi bên khung vẽ đến sáng, khung vải còn trắng tinh, sơn cọ nằm y nguyên trên giá vẽ. Đêm sau Năm Thơ cũng ngồi bên giá vẽ như tượng gỗ, đến sáng khung vải vẫn thế. Chiều lại, Năm Thơ rủ Tư Đạt nhâm nhi. Uống một lúc, Năm Thơ hai mắt lừ đừ đôi môi mấp máy hát hay ngâm thơ gì đó lảm nhảm trong miệng nghe không được. Tư Đạt cũng say vùi đến sáng bét, khi thức dậy Năm Thơ đi đâu mất, chỉ còn trơ cái giá vẽ đậy phủ tấm nhung màu hạt cau kín mít. Tư Đạt đến gần, đến gần giở tấm vải nhung lên. Bất ngờ, Tư Đạt thấy hình ông già ngồi tréo ngoẩy, lưng thẳng, đầu chít chiếc khăn đóng, mặc chiếc áo dài nhung xanh có hình chữ vạn, tay tựa cùi chỏ lên bàn, bàn phủ bằng lụa mỏng, trên bàn có bộ tách kiểu sang trọng, ai đó vừa mới rót nước trà vào tách, nước vàng sóng sánh. Tư Đạt chợt sụp quỳ xuống lạy ba lạy:

- Chú Bảy ơi! Sống khôn, thác thiêng về phù hộ cho con cháu làm ăn phát đạt, xóm làng được yên ổn.

Tư Đạt đứng lên tần ngần trước bức họa một lúc rồi nhẹ nhàng đậy tấm nhung điều lại như cũ. Năm Thơ đi đâu không biết! Đến trưa có người cho hay:“Chú họa sĩ say quắt quéo ở quán thịt cầy cuối xóm kìa!”. Tư Đạt hơ hải tìm kiếm dắt về.

Năm Thơ khi có tiền nhét vào cái túi của Tư Đạt cả xấp. Tư Đạt thoái thác:

- Anh nên giữ để mà còn về xứ nữa chớ!

Năm Thơ lặng lẽ nhét tiền vào cặp của con Tư Đạt. Thương cái nghĩa, mến cái tình của Năm Thơ, Tư Đạt đôi lần thủ thỉ:

- Ở lại đây đi, có chỗ nào đàng hoàng tôi làm mai mối cưới vợ, tôi cho một cái nền nhà ở cho vui. Và khi nào rảnh rỗi anh truyền nghề lại cho con tôi. Năm Thơ lơ đãng:

- Nghề vẽ này không gì khó khăn! Nhưng điều quan trọng là cháu nó có muốn học hay không? Vì nghệ thuật không ai ép buộc, dẫu có ép cũng không được. Mà này! Chú Tư ơi! Tôi vẽ cho chú một bức chân dung để mai kia mốt nọ có xa nhau để làm kỷ niệm. Tư Đạt từ chối:

-Tôi là một nông dân quèn, có công trận chi mà lưu hình ảnh.

-Đây là nghệ thuật mà chú!

Hôm sau, Năm Thơ đi chợ mua về một miếng lụa trắng lớn đóng cái khung căng vải thẳng băng dựng lên giá vẽ rồi phủ tấm nhung lên. Năm Thơ đi ra sau tắm rửa kỳ cọ sạch sẽ. Tắm xong, Năm Thơ mặc quần áo thẳng nếp đến ngồi bên giá vẽ như mọi khi. Ngồi lặng lẽ, lặng lẽ như không có sự hiện diện của con người trong phòng, chỉ còn tĩnh vật. Đến một lúc nào đó anh trân trọng pha màu trời, màu nắng đến màu xanh lá cây rừng, màu xanh áo lính, màu đất xám ai ải lẫn lộn lá rừng rữa mục lần lượt hiện phơn phớt trên khung vải lụa. Cuối cùng là da thịt, mặt mũi cả đến những sợi lông tơ hai bên mang tai đâm đẫm mồ hôi của Tư Đạt như muốn rơi chảy xuống. Vai Tư Đạt vác súng B40, quả đạn như cái bắp chuối nhọn hoắc hướng về phía trước. Hình ảnh một anh bộ đội Việt Nam hùng dũng lần lượt hiện rõ, sinh động trên vải lụa. Một ngày, hai ngày... đến đêm thứ năm thì miếng nhung điều lại phủ kín xuống giá vẽ. Năm Thơ nằm lăn ra ngủ li bì. Tư Đạt cũng vừa thu hoạch vụ mùa xong về nhà. Không thấy Năm Thơ bên giá vẽ, Tư Đạt thử kéo miếng nhung lên. Như có một luồng điện mạnh chạm vào mắt. Tư Đạt lùi lại ba bước, rồi năm bước, mười bước, ngồi phệt xuống ghế.

Năm Thơ nói với Tư Đạt:

-Bức tranh xong rồi đó! À! Mà còn chấm lại vài nét vì tôi thấy chưa hoàn chỉnh...

Tư Đạt sụp xuống ôm đôi bàn tay của Năm Thơ hôn chùn chụt như mỗi lần say về ôm hôn vợ. Tư Đạt thủ thỉ với Năm Thơ:

- Tôi không còn gì mà để nghi ngờ anh, chính biết cái tài nghệ đó, nên tôi nhờ anh giúp tôi một việc.

....

- Quê tôi có một liệt sĩ lúc hy sinh vừa độ mười tám tuổi. Năm đó, chị làm cán bộ của Đoàn thanh niên, vừa đến dự cuộc họp có nhiều đồng chí cấp trên xuống dự. Bất ngờ bọn biệt kích ập tới, chị lao về hướng khác, miệng chị hô to như cố ý cho bọn biệt kích nghe:

“Đả đảo bọn Mỹ, Ngụy... Đả đảo!”. Hàng chục mũi súng hướng về chị nhả đạn xối xả. Chị gục xuống. Các đồng chí trong cuộc họp chạy thoát an toàn.

Vậy là Tư Đạt kể lại hình dáng, nét mặt của người nữ du kích cho Năm Thơ nghe theo trí nhớ...

Sáng hôm ấy Tư Đạt thức sớm không thấy Năm Thơ. Anh đi lần đến giá vẽ đã thấy bức tranh trên lụa. Cô gái rất trẻ, đầu đội nón tai bèo, mặc áo bà ba đen, khăn rằn quấn cổ, tư thế hiên ngang với kẻ thù.

Người nhà của chị Giang – người nữ du kích năm xưa mừng quá, xin đem bức vẽ về. Nhưng Năm Thơ xin khất lại vài hôm để hoàn thiện bức vẽ...

* * *

Đêm đó Năm Thơ nằm co quắp trong mùng. Tư Đạt phát hiện chở đến bệnh viện thì Năm Thơ đã liệt hết một bên chân tay. Một tháng sau, Năm Thơ tạm khỏe về nhà. Tư Đạt túc trực bên Năm Thơ, chăm sóc.

Buổi trưa ấy bỗng có chiếc xe du lịch bảy chỗ bóng loáng đậu trước cửa nhà Tư Đạt. Người ta tìm hỏi Năm Thơ. Trong xe gồm hai cô gái và một phụ nữ đẹp và sang trọng. Hai cô gái, một cô gọi bằng cha, một gọi bằng thầy vừa gặp Năm Thơ khóc nức nở, còn thiếu phụ ngồi khép nép dưới chân Năm Thơ, nước mắt rơi dài trên đôi má trắng nõn nà:

“Mình! Xin mình hãy tha thứ cho em. Mong mình rộng lượng cho em một lần thôi. Và cùng em về nhà cho con vợ nuôi mình. Mình ở đây một ngày, khổ cho con mười ngày đó!” Năm Thơ lặng lẽ trầm mặc như khi ngồi bên giá vẽ trước khi phác họa một chân dung. Một lúc lâu, Năm Thơ nói thật khẽ.

-Tôi sẵn lòng tha thứ cho em đó! Nhưng còn chuyện đi về nhà thì thủng thẳng một thời gian đã. Ở đây, tôi nghe lòng mình thanh thản hơn, bên cạnh còn có chú Tư Đạt an ủi cũng vui vui, không thể dứt liền được! Thôi em về đi, lo cho con, cho cháu...

Nói rồi Năm Thơ ra dấu cho Tư Đạt đỡ nằm xuống ngủ ngon lành.

Tư Đạt lần mò hỏi phăng tới:

-Chị là vợ của anh Năm phải không?

-Phải.

-Cớ gì anh Năm bỏ nhà ra đi?

Người đàn bà nghẹn ngào:

-Vợ chồng em sống hạnh phúc được hai mặt con gái. Anh Năm là giáo viên cấp ba, lớp đi dạy, lớp lo vẽ về khuya sớm. Nghe người ta nói rằng: Anh Năm có nhân tình không đếm xỉa gì đến vợ con. Tôi ngã lòng mê muội vào cạm bẫy của người khác. Anh Năm buồn bỏ xứ ra đi biệt cho đến hôm nay. Có chú Tư ở đây tôi cũng yên lòng. Tôi về nhà thu xếp công việc rồi qua rước anh Năm về.

Tư Đạt nhìn ba người phụ nữ ra về, rồi nhìn Năm Thơ nằm co quắp, chạnh lòng xót xa thương cho người bạn của mình. Khuya đêm đó, Năm Thơ thức giấc ho húng hắng trong cổ. Tư Đạt cũng thức, Năm Thơ ngoắc Tư Đạt lại thều thào trong miệng:

-Chú đưa tôi đến giá vẽ...

Năm Thơ chầm chậm đỡ tấm nhung phủ chân dung người nữ du kích. Tay Năm Thơ cầm cọ yếu ớt chấm phếch thêm những đường nét làm cho khuôn mặt người trong tranh sinh động như người sống.

Tư Đạt bất giác kêu lên:

- Chị Giang ơi! Chị còn sống đây mà!Về mừng xóm làng mình phát triển vui lắm chị ơi!

Bỗng Năm Thơ gục đầu xuống, Tư Đạt ôm Năm Thơ đỡ lên trên tay. Hơi thở Năm Thơ yếu dần, rồi tắt ngấm. Phía chùa, tiếng ngân của hồi chuông công phu sáng vừa dứt. Tư Đạt để Năm Thơ nằm ngay thẳng trên ba miếng ván ngựa gỗ xoài. Linh cữu Năm Thơ được đặt ở giữa nhà trước khi đưa đi hỏa táng. Tư Đạt lục trong ba lô Năm Thơ, không có gì hết, chỉ vài cây cọ sơn và bộ quần áo cũ mèm! Đầu quan tài Năm Thơ để trống trơn vì không có bức chân dung của người bạc mệnh.

Chia sẻ bài viết