27/07/2022 - 16:04

Tăng sức chống chịu cho ĐBSCL trước biến đổi khí hậu 

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được xem là điểm nóng của toàn cầu về biến đổi khí hậu (BĐKH), các tác động tiêu cực của hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở bờ sông bờ biển… đang đe dọa sinh kế của hàng triệu hộ gia đình. Nếu không có các biện pháp thích ứng, khoảng 45% diện tích ĐBSCL sẽ bị ngập mặn, với tổn thất khoảng 17 tỉ USD vào năm 2030.

 

Các công trình đầu tư hạ tầng cần đáp ứng yêu cầu kết nối, tăng sức chống chịu cho vùng. Ảnh: A.H

Áp lực từ các tổn thương

ĐBSCL đóng góp 50% sản lượng lúa và 95% kim ngạch xuất khẩu gạo, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 60% sản lượng cá xuất khẩu, 70% sản lượng trái cây và 1/3 GDP nông nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, thành công kinh tế ban đầu của khu vực này đang phải trả giá rất lớn. Trong những thập niên gần đây, tần suất và cường độ của các thảm họa như lũ lụt, hạn hán, xói lở bờ biển, bờ sông và ngập mặn đã tăng lên đáng kể.

Theo bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, ngoài các tác động dài hạn của dịch COVID-19, vùng ĐBSCL cũng đã chứng kiến ​​tình trạng di cư trong những năm qua do BĐKH. Đặc biệt, lượng người di cư ở vùng này chiếm khoảng 37% tổng số người di cư trong cả nước vào năm 2020. Nhiều ước tính cho thấy tác động của BĐKH mỗi năm có thể gây thiệt hại cho ĐBSCL lên tới 70 triệu USD vào mùa mưa do ngập lụt và 1,7 tỉ USD vào mùa khô do hạn mặn. Cùng với các bất định thị trường, khiến khu vực này phải đối mặt với những thách thức trong quá trình phát triển.

Mới đây, WB công bố Báo cáo quốc gia về Khí hậu và Phát triển cho Việt Nam (CCDR) đã chỉ ra rằng, ĐBSCL của Việt Nam - nơi sinh sống của khoảng 18 triệu dân đã và đang bị ảnh hưởng bởi BĐKH; hơn 70% diện tích đất của một số tỉnh, thành trong vùng có thể bị ngập trong vòng 80 năm nữa. CCDR cũng thống kê, Việt Nam thiệt hại khoảng 10 tỉ USD vào năm 2020 (tương đương 3,2% GDP) do tác động của BĐKH và con số thiệt hại này có thể lên đến 523 tỉ USD vào năm 2050. Và nếu không có các giải pháp thích ứng toàn diện, tác động của BĐKH có thể khiến từ 400.000 người đến 1 triệu người rơi vào cảnh nghèo cùng cực vào năm 2030.

Đối với ĐBSCL, nhóm nghiên cứu của WB đưa ra nhận định rằng, việc tăng vụ lúa và xây dựng các hệ thống hạ tầng tưới tiêu khổng lồ đã làm cạn kiệt hệ thống tự nhiên của vùng. Hệ lụy của nó là làm gia tăng ngập úng ở các tỉnh vùng hạ lưu trong mùa lũ và gia tăng xâm nhập mặn ở các tỉnh Duyên hải vào mùa khô; giảm nguồn lợi thuỷ sản; suy thoái chất lượng nước bề mặt, ô nhiễm nguồn nước ngầm; sụt lún đất; suy thoái môi trường và hệ sinh thái ven biển… Nếu không có các biện pháp thích ứng, khoảng 45% diện tích ĐBSCL sẽ bị ngập mặn, với tổn thất khoảng 17 tỉ USD vào năm 2030. Điều đó sẽ tác động tiêu cực đến điều kiện sống của người dân, tình trạng di cư ra khỏi vùng ĐBSCL có dấu hiệu ngày càng tăng.

Chủ động để thích ứng BĐKH

Năm 2017, Thủ tướng ban hành Nghị quyết về Phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH (Nghị quyết Số 120/NQ-CP) với tư duy mới, tầm nhìn mới để phát triển bền vững ĐBSCL. Nghị quyết đã tập trung 5 nội dung chính. Cụ thể là: Thiết lập các tiểu vùng sinh thái và xây dựng kế hoạch sử dụng đất phù hợp với đặc điểm tự nhiên. Xây dựng quy hoạch tổng thể tích hợp toàn vùng. Xây dựng cơ cấu kinh tế dựa trên ngành nuôi trồng thủy sản - công nghệ rau hoa quả - nông nghiệp, công nghiệp xanh và du lịch sinh thái. Đảm bảo phối hợp và kết nối khu vực. Xác định các cơ chế, chính sách đột phá nhằm thu hút nguồn vốn ngoài ngân sách, đặc biệt là khu vực tư nhân. Tháng 2-2022, Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 được thông qua là nền tảng pháp lý để tạo bước đi đột phá cho vùng.

Thực hiện Nghị quyết 120, nhiều địa phương đã chủ động trong thích ứng với BĐKH, cách tiếp cận và tư duy cũng thay đổi so với trước. Theo ông Huỳnh Quốc Việt, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, tỉnh phấn đấu đến năm 2025, tầm nhìn 2030 đạt mục tiêu tăng trưởng khá trong khu vực ĐBSCL. Để chủ động thích ứng với BĐKH, kiến nghị Trung ương tiếp tục quan tâm, hỗ trợ các tỉnh, thành trong vùng giải quyết tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển. Trung ương sớm ban hành cơ chế giao đất (cho thuê đất) đối với phần diện tích được bảo vệ và phục hồi trong công trình kè chống sạt lở với thời hạn từ 50-70 năm để khuyến khích doanh nghiệp có tiềm lực đầu tư xây dựng các công trình kè chống sạt lở. Cho phép Cà Mau thực hiện thí điểm liên kết với các tỉnh trong đầu tư xây dựng hoàn thiện hệ thống công trình thủy lợi tiểu vùng Bán đảo Cà Mau…

Theo ông Nguyễn Thanh Bình, Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, để phát triển bền vững, Trung ương cần ưu tiên các nguồn lực đầu tư các công trình hạ tầng cho ĐBSCL. Trong đó ưu tiên các công trình cao tốc, kết nối vùng, liên vùng và liên vận quốc tế. Phát triển các trung tâm đầu mối về nông nghiệp gắn với vùng chuyên canh, kết nối với đô thị trung tâm cấp vùng, tiểu vùng; đây còn là nơi phát triển logistics cho nhu cầu kho vận, chế biến sâu, đào tạo và chuyển giao công nghệ… nhằm nâng cao giá trị nông sản của ĐBSCL.

Hàng năm, lượng gạo xuất khẩu của ĐBSCL chiếm đến 95% kim ngạch xuất khẩu gạo cả nước. Ảnh: V.S

Các chuyên gia WB cũng khuyến nghị, Quy hoạch vùng cần theo hướng tăng cường khả năng thích ứng, sinh kế và tài sản cho người dân. Đồng thời tăng năng suất và nâng cao khả năng cạnh tranh của vùng khi phải đối mặt với những thách thức ngày càng lớn về khí hậu và phát triển dưới các tác động bất định trên toàn cầu. Đặc biệt là triển khai và bắt buộc thực hiện các biện pháp bảo tồn (có cơ chế quản lý khai thác cát và nước ngầm); mở rộng mô hình canh tác thích ứng với tình trạng xâm nhập mặn gia tăng; bảo vệ và khôi phục rừng ngập mặn để giữ đất, tạo lợi ích sinh kế. Có nguồn lực đảm bảo cho các khoản đầu tư. Khắc phục tình trạng thâm hụt đầu tư công tồn đọng nhiều năm qua ở ĐBSCL. Chia sẻ rủi ro để huy động các nguồn lực đầu từ, nhất là thu hút khu vực tư nhân tham gia xây dựng các dự án thích ứng với BĐKH.

Theo bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam, nhu cầu vốn tối thiểu dự kiến lên đến 57 tỉ USD từ nay đến năm 2030 để thực hiện các dự án đầu tư theo quy hoạch vùng. Vì vậy, quan trọng là phải có tầm nhìn khu vực, tập trung thực hiện những hành động mang tính cấp bách và mang lại tác động to lớn. Cần sắp xếp thứ tự ưu tiên các dự án đầu tư cấp vùng, phân bổ ngân sách cho các dự án đã lên kế hoạch và đơn giản hóa quy trình phê duyệt, đảm bảo quyền tự chủ cũng như trách nhiệm giải trình khi thực hiện các dự án ưu tiên. Tiếp đến là Chính phủ cần có chỉ đạo rõ ràng và thống nhất về vai trò, trách nhiệm của các bên liên quan; đảm bảo sự tham gia và phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và giữa các cấp quản lý từ Trung ương đến địa phương. Các quy hoạch phải đảm bảo tính thống nhất, tích hợp và luôn được cập nhật, kế thừa.

GIA BẢO

Chia sẻ bài viết