15/06/2013 - 21:45

VỀ TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO BÁO CHÍ

* NGUYỄN HỒNG VINH
PGS, TS, Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương

Tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn là vấn đề mang tính toàn cầu. Nó không chỉ là sự quan tâm của những người cầm quyền ở mỗi quốc gia, mà còn là một đòi hỏi cơ bản của quyền con người, là nhu cầu tinh thần trong tiến trình tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin. Song, trong một thể chế chính trị cụ thể, nội hàm của tự do ngôn luận, tự do báo chí được hiểu khác nhau do cách tiếp cận khác nhau, thậm chí do những động cơ chính trị đối lập của các nhóm lợi ích khác nhau.

 

Quan niệm chung về tự do ngôn luận, tự do báo chí

Tự do ngôn luận, tự do báo chí là một trong những mục tiêu phấn đấu cơ bản của con người nhằm giành cho mình quyền được thông tin, trao đổi, giao tiếp, thể hiện ý chí và nguyện vọng của con người một cách công khai thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng.

Cùng với sự phát triển của ngành in, gồm chế tạo ra máy in (năm 1810), mực in (năm 1814), sự ra đời của báo viết ở phương Tây gắn liền với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhằm phổ biến tư tưởng dân chủ tư sản, chống lại sự thống trị hà khắc của chế độ phong kiến, góp sức thúc đẩy phát triển khoa học - kỹ thuật và xây dựng xã hội công dân trong các nước châu Âu. Như vậy, báo chí ra đời do nhu cầu phát triển nội tại của một chế độ chính trị - xã hội; trước đòi hỏi của một giai cấp, giai tầng xã hội cần thiết có một công cụ báo chí để chuyển tải tâm tư, nguyện vọng của mình trước những vấn đề mà cả xã hội cùng quan tâm. Nói cách khác, nhu cầu tự do ngôn luận cũng chính là nhu cầu tự do báo chí.

Trong quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, với sự xuất hiện và phát triển của báo chí qua hàng trăm năm, đến nay, có thể khẳng định báo chí có mấy chức năng chủ yếu: Chức năng thông tin; chức năng phản ánh; chức năng tạo ra dư luận xã hội, góp phần định hướng dư luận xã hội; chức năng nâng cao dân trí, chức năng giải trí;...

Báo chí ra đời trong xã hội tư bản, được thiết kế trên nền tảng tư tưởng dân chủ tư sản, nhằm chống lại sự cản trở của chế độ phong kiến. Đó là bước tiến bộ lớn của lịch sử. Trong một chế độ chính trị có nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thì mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội phải tuân theo pháp luật. Vì vậy, hoạt động báo chí không thể năm ngoài yêu cầu đó. Nhưng pháp luật trong chế độ tư bản là sự thể hiện ý chí của giai cấp tư sản. Họ sử dụng bộ máy nhà nước để duy trì trật tự xã hội vì lợi ích của giai cấp tư sản chiếm số ít trong dân cư. Vì vậy, không thể có tự do ngôn luận, tự do báo chí thuần túy nằm ngoài sự kiểm soát của nhà nước tư sản. Người ta hình như cố tình quên đi đặc điểm này để chỉ trích nước này, nước nọ; trong khi chính ở nước họ đã và đang diễn ra không ít hành động vi phạm tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Cần khẳng định rằng, tự do báo chí theo nghĩa chân chính chỉ có được trên nền tảng một xã hội dân chủ; mọi hoạt động của báo chí phải phục vụ lợi ích của đông đảo nhân dân. Không thể có tự do báo chí trong một xã hội độc tài, phát-xít, chuyên quyền, độc đoán. Ở những nơi mà tất cả các tờ báo tiến bộ chống phát-xít bị đóng cửa thì không bao giờ có tự do báo chí, tự do ngôn luận vì lợi ích chính đáng của nhân dân.

Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản mới ra đời chống lại giai cấp phong kiến, báo chí tuyên truyền cho tư tưởng dân chủ tư sản, pháp luật tư sản, có tác dụng tích cực, cổ vũ việc xây dựng xã hội dân chủ tư sản. Tuy nhiên, khi giai cấp tư sản đã thiết lập được quyền thống trị của họ, thì pháp luật về báo chí lại là công cụ đắc lực phục vụ quyền lợi cho một thiểu số bóc lột. Để bảo vệ sự thống trị của mình, giai cấp tư sản đã xếp các tờ báo bảo vệ chế độ tư bản là báo chí "tiến bộ"; còn các tờ báo phản ánh tiếng nói phản kháng của số đông nhân dân thì họ liệt vào loại báo chí "phản động". Các tờ báo của giai cấp công nhân mới bước lên vũ đài chính trị, cổ động cho một xã hội không có người bóc lột người, cũng đều bị coi là báo chí phản động! Chính quyền tư sản ban hành các đạo luật khắt khe, trong đó có các đạo luật về báo chí, quy định những điều cấm kỵ. Người ta có thể tha hồ nói, tha hồ viết về tất cả mọi vấn đề, nhưng có một nội dung không được động chạm đến, đó là "quyền tư hữu", vì theo Hiến pháp họ soạn thảo, "tư hữu là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm" (!)

Thực tiễn nêu trên cho thấy, khi giai cấp cầm quyền còn đóng vai trò tiến bộ của lịch sử, thì tự do ngôn luận, tự do báo chí có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Và ngược lại, khi giai cấp cầm quyền đã trở thành lực lượng cản bước tiến của xã hội thì "tự do báo chí" không thể nào có được, theo đúng nghĩa của cụm từ này. Với sự phân tích các điều kiện chủ quan, khách quan trong bất cứ chế độ chính trị - xã hội nào, có thể khẳng định rằng, không thể có tự do ngôn luận, tự do báo chí thuần túy; càng không thể có thứ "tự do báo chí tuyệt đối" như giai cấp tư sản rêu rao.

Phải chăng xã hội tư bản là hình mẫu của " tự do báo chí"?

Trong xã hội tư bản, báo chí hoạt động trong môi trường của pháp luật tư sản. Cái mà họ gọi là "tự do báo chí" đã bị cắt xén để phục vụ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Xin nêu vài ví dụ tiêu biểu:

Theo quy định của Hiến pháp Mỹ, Quốc hội không có quyền ban hành bất cứ văn bản nào nhằm hạn chế tự do báo chí, tự do ngôn luận. Tuy nhiên, đến năm 1798, Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Phản loạn quy định "việc viết, in, phát biểu hay phổ biến... mọi văn bản sai sự thực, có tính chất xúc phạm hay ác ý chống chính quyền đều là tội". Bên cạnh đó, Điều 2385 Chương 115 của Bộ luật Hình sự Mỹ nghiêm cấm mọi hành vi "in ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực". Cũng theo Hiến pháp Mỹ, Tòa án tối cao được phép đưa ra những trừng phạt pháp lý khi phát hiện báo chí có hành vi phá hoại, lăng nhục, vu khống, xúc xiểm nhà nước, xã hội và cá nhân. Vì thế, ở Mỹ hằng năm có hàng trăm các văn bản lớn nhỏ khác nhau được Tòa án tối cao ban hành để điều hành và kiểm soát báo chí. Ngoài ra, theo Hiến pháp của các bang, việc truy tố đối với tội lạm dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cũng được coi là hợp pháp.

Luật pháp của các nước khác, về nguyên tắc, cũng công nhận quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, nhưng không coi quyền này là "tự do tuyệt đối". Điều 36 Hiến pháp Cộng hòa Cư-rơ-gư-xtan mặc dù tuyên bố "truyền thông tự do", nhưng đã cụ thể hóa tuyên bố này trong Điều 17: "Hiến pháp và Luật của nước Cộng hòa Cư-rơ-gư-xtan hạn chế đối với việc thực hiện các quyền và quyền tự do được cho phép chỉ trong trường hợp nhằm bảo đảm quyền và tự do của người khác, bảo đảm an toàn và trật tự xã hội, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ trật tự hiến pháp. Nhưng trong quá trình thực hiện, tinh thần về các quyền và các quyền tự do hợp hiến không được phép bị ảnh hưởng". Điều 8 Hiến pháp Xê-nê-gan thừa nhận việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, song cũng coi các quyền này là "đối tượng điều chỉnh và bị hạn chế bởi luật và các quy định pháp luật". Điều này hoàn toàn phù hợp với nội dung "tuyên ngôn thế giới về nhân quyền" (năm 1948) của Liên hợp quốc đã được khẳng định tại Điều 29: "Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ".

Những ví dụ nêu trên cho thấy, không một quốc gia nào trên thế giới coi quyền "tự do báo chí", "tự do ngôn luận" là tuyệt đối. Vụ bê bối nghe lén và những câu chuyện vi phạm đạo đức nghề nghiệp của tờ báo từng được xếp hạng số 1 trong số các báo "lá cải" ở Anh - tờ News of the World của ông trùm truyền thông R. Mơ-đốt phải đóng cửa hồi năm 2011 bị phanh phui, Chính phủ Anh đã phải đưa ra quyết định kiểm duyệt gắt gao hơn với ngành truyền thông báo chí của nước này. Theo quy định mới, Chính phủ Anh sẽ thành lập một tổ chức giám sát báo chí có quyền ban hành các lệnh cấm hoạt động, đình bản vĩnh viễn, phạt tiền tới một triệu bảng Anh (l,5 triệu USD), buộc đăng lời xin lỗi với diện tích lớn trên trang nhất... đối với các tờ báo mắc sai phạm. Cơ quan giám sát báo chí này còn được quyền buộc các tờ báo phải đăng lên trang nhất (với diện tích lớn) lời xin lỗi nếu thông tin trong bài viết không chính xác cũng như chi trả tiền thuê trọng tài, tòa án cho các nạn nhân của họ. The Times - một trong những tờ báo có lượng xuất bản lớn nhất nước Anh - đã gọi thỏa thuận này là "một chương đen tối trong nền tự do báo chí của nước Anh". Còn theo tờ Daily Mail, lần đầu tiên kể từ thế kỷ XVII đến nay, "báo chí Anh lại bị chính trị can thiệp sâu đến như vậy"!

Gần đây, bộ phim báng bổ đạo Hồi có tên "sự ngây thơ của các tín đồ Hồi giáo" do một nhà làm phim Mỹ tung ra thị trường, đã ngay lập tức gây nên làn sóng biểu tình, bạo động. Người chết, máu đổ, nhà thờ bị phá, đại sứ quán Mỹ ở nhiều nước bị vây hãm,... là kết quả của sự phẫn nộ, phản kháng dữ dội của hơn 1,2 tỉ tín đồ đạo Hồi trên khắp thế giới. Trước sự kiện đó, Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban-ki-mun đã lên tiếng: "Tự do ngôn luận được bảo vệ khi nó được sử dụng vào mục đích công lý và cộng đồng... Khi một số người sử dụng quyền tự do này để khiêu khích hoặc sỉ nhục các giá trị niềm tin của người khác thì hành động đó sẽ không được bảo vệ".

(Còn tiếp)

Theo Tạp chí Cộng Sản

Chia sẻ bài viết