06/08/2017 - 10:22

Rồi đất lại về 

Truyện ngắn VĨNH THÔNG

Đã không biết bao nhiêu lần như thế, cứ mỗi lần nghe tiếng gió lao xao ngoài sông thổi vào, dù rất nhẹ, cũng khiến cô giáo đang đứng trên bục giảng rùng mình... Hôm nay vẫn như bao lần trước, cô vừa giảng được mấy câu thì ngọn gió lại nổi lên, lại đánh phần phật vào vạt áo dài màu lá mạ rất đẹp của cô, như muốn thổi bay dáng người mảnh mai.

Cô không dám đối mặt với cơn gió thổi vào từ sông. Bởi mỗi khi cơn gió nổi lên, cô như nghe rõ tiếng lao xao phía ngoài sông. Những tiếng nói dìm tất cả niềm vui trong cô, chỉ chừa lại một khoảng trống tối đen chừng như vô tận. Giọng giảng bài của cô trở nên lạc lõng.

Không biết học trò có nghe giảng không. Nhưng cô cảm thấy những gì mình đang nói như những âm thanh vô nghĩa. Chỉ có tiếng gió lao xao ngoài sông đang nghe và trò chuyện với cô.

***

Tối qua cô lại nằm mơ, thấy ông nội về. Ông bảo phải cố giữ cái bờ đất ven sông. Ông và bà; ba và má cô từng ở đó. Còn có bao đời tổ tiên. Đó cũng là nơi cô cất tiếng khóc đầu đời cho đến trưởng thành, nơi cô lớn lên với nhiều mộng mơ. Tất cả, ở trên mảnh đất ấy. Mà, giữ lại làm sao được bây giờ, ông nội? Ông không nghe cô hỏi, ông bỏ đi. Cô thấy hình như ông khóc. Tỉnh dậy, biết chỉ là giấc mơ, cô cũng sụt sùi. Ngay cả cuộc gặp ngắn ngủi trong mơ, những người thân yêu của cô cũng vẫn trăn trở về mảnh đất nhỏ quê nhà.

Đó là mảnh đất đầu cù lao, nơi nuôi dưỡng bao thế hệ trong dòng tộc, giờ sắp không còn. Mấy chục năm qua, nó đã lở rất nhiều và lở mãi. Bờ bây giờ dựng đứng, phía trong đỏ như màu gạch cua. Màu mà đôi lúc cô tưởng như màu máu của bao thế hệ khai hoang mảnh đất và nằm lại nơi đây. Cứ mỗi năm sóng nước lại lấy đi một mét, hai mét, thậm chí có năm gần chục mét, không biết đến bao giờ mới thôi. Cô từng đọc trên một tờ báo rằng dòng sông hễ bên nầy lở thì bên kia bồi, sau một chu kỳ nào đó sẽ đổi dòng, lúc đó bên bồi sẽ lở và bên lở sẽ được bồi. Không biết tới chừng nào sông quê mới đổi dòng, để cái bờ đất nhỏ thuở ấu thơ được bồi trở lại?

Gió lao xao, sông nổi sóng lớn. Và rồi cả gió và sóng hợp lại cùng nhau, vồ lấy bờ đất ấy xuống lòng sông. Những viễn cảnh luôn ám ảnh cô. Bởi thế, cô sợ tiếng gió lao xao ở ngoài sông. Dù gió phải len qua những hàng cây, những khe cửa sổ mới đến được bục giảng cô thường đứng, nhưng cũng đủ làm cho cô giựt mình.

Hằng đêm cô thường mơ, nếu không thấy ông về thì lại thấy cảnh dòng sông vồ lấy mảnh đất nhỏ của mình. Đã có đôi lần giữa đêm cô vụt chạy ra bến sông, đứng trên bờ nhìn xuống, lòng sục sôi ý định điên rồ phải cứu vãn bờ đất ấy. Nhưng rồi cô lại thừ người ra, bất lực.

Tiếng trống hết giờ vang lên. Cô cũng không thể đứng lâu hơn được nữa. Chiếc xe của cô chạy thẳng ra bờ đất phía đầu cù lao, nơi có bến đò hằng ngày đưa khách qua lại hai bên bờ. Cô bất giác nhớ đến những câu hát da diết “Sông vẫn in màu mây, vẫn khi vơi đầy vẫn mang phù sa, làm đẹp thêm làng quê yêu dấu. Sông vẫn như thuở ấy, vẫn con đò ngang đón đưa người sang, và từng đêm hát ru đôi bờ”[1]. Cô cảm thấy từ trong lồng ngực nhói ra.

Đã lâu rồi cô không đi qua nơi nầy. Đường từ nhà đến ngôi trường đang dạy không đi ngang đây, đó chỉ là lý do cô viện ra. Nguyên nhân là cô không muốn nhìn thấy mảnh đất ven sông cứ hẹp dần sau những lần mình đi ngang. Cô ngại qua đoạn đường nầy, ngại qua sông bằng bến đò nầy, vì ngại thấy cảnh sóng nước đang gặm nhắm từng vạt đất.

Lòng sông quá rộng, những giề lục bình trôi ngơ ngác như vang lên một điệu buồn, cũng quen thuộc y như hàng trăm dòng sông, kinh rạch ở vùng đất nầy. Cô đã đứng ở bờ sông, gần lắm với tuổi thơ, nhưng cô không thể nào với tới được, cũng như không bao giờ đến được mảnh đất của ngày xưa nữa, không thể nào sờ lên những kỷ niệm đang sống dậy trong lòng mình, không thể cùng những đứa trẻ đen nhẻm ngày xưa bì bõm ở bờ sông.

Có vài ba người đàn ông đang chài lưới gần đó. Một người bâng quơ: “Hôm nay chài không được bao nhiêu hết, chán quá!”. Cô hỏi lại, cũng chỉ rất tình cờ: “Mấy hôm trước được nhiều không chú?”. “Mấy bữa đó thì đỡ hơn”. Cô buột miệng: “Phải không có dòng sông thì mọi người đâu có khổ?”. Lúc này thì câu chuyện không còn bâng quơ nữa. Người đàn ông không quay lên nhìn mặt cô, vẫn ung dung với cái lưới của mình, trả lời: “Trời, cô nầy biểu ngộ hen. Không có sông làm sao sống hả cô?”.

Không có sông làm sao sống? Có thật vậy không? Có biết bao nhiêu người đã phải từ bỏ nơi chôn nhau cắt rún của mình chỉ vì dòng sông này. Ngay cả cô cũng đành quay lưng từ bỏ mảnh đất tuổi thơ. Gia đình cô giờ đây phải lùi xa mảnh đất ấy gần một cây số để cất nhà mới, bởi bao căn nhà, bao đám rẫy, vườn tược, thậm chí đình, chùa… đã trôi theo nước cả rồi! Gần sông chỉ còn lại lưa thưa vài nóc nhà xơ xác. Cô tỏ ra bực dọc: “Sông làm đất lở hoài, bà con phải bỏ đi nơi khác”.

Người đàn ông lại vẫn nở một cái cười thiệt hiền, từ tốn: “Đất không có duyên với người thì nó đi. Người không có duyên với đất thì người đi. Đời hợp tan tan hợp, có gì đâu mà buồn. Mà nói vậy chứ đất có đi đâu, nó lở ở đầu cù lao, theo sông chảy dài xuống dưới đuôi cù lao rồi tấp vô đó, kéo dài, kéo rộng cù lao mình ra thêm hoài. Rồi mai đây bà con mình sẽ xuống đuôi cù lao dựng nhà, mở xóm, làm ăn… Cô không biết sao?”.

Có chuyện đó sao? Cô chưa từng đặt chân đến cuối cù lao lần nào, vì dưới đó không có đường, chỉ dăm nóc nhà thoi loi giữa đồng. Chẳng lẽ những hạt đất tuổi thơ của cô đã neo đậu nơi ấy? Không có duyên với nhau thì đi, hợp tan tan hợp. Lời này của người chài lưới làm cô ngạc nhiên. Những suy nghĩ của người đàn ông chân quê ấy sao lại quảng đại mà giản đơn thế. Còn cô, phải chăng đã sống quá hẹp lòng với sông?

Xa xa, con đò làng yên lướt nhẹ trên mặt sóng, tách bến khi tiếng xôn xao vừa dứt, rồi lại cập bến với những tiếng xôn xao rộ lên. Dòng người xe lại hối hả di chuyển. Âm thanh lao xao của tiếng máy, tiếng sóng, tiếng người hòa quyện giữa không gian lắng đọng của xứ cù lao.

Có mấy đứa nhỏ vừa xuống sông tắm, nô đùa tinh nghịch. Chúng sống trọn vẹn với phút giây thực tại vui tươi nầy. Còn cô, sao lại đầy rẫy bất an, phiền muộn. Không có sông làm sao sống, câu nói ấy cứ ám ảnh cô. Sông đã lấy đất của làng, nhưng cô cũng biết rằng mình từng sống những năm tháng tuyệt vời với con sông nầy. Những con cá, con cua, con ốc được sinh ra từ dòng sông nầy, chúng nuôi bao thế hệ lớn lên, chúng là nguồn sống cho biết bao gia đình trên cù lao.

Sông kia, bờ đất kia, có bao giờ thuộc về cô đâu, chúng đã là quá khứ mất rồi. Quá khứ đi qua, có níu kéo cũng không được, tương lai lại ở tít xa mà không biết đến bao giờ mới với tới. Con người không thể điều khiển, sắp đặt chúng. Vậy thì tại sao không để mọi thứ diễn ra tự nhiên như đúng bản chất. Tại sao phải tự dằn vặt, đau khổ, toan tính vì những chuyện vốn không là của mình.

Đang ngẩn ngơ điện thoại bỗng reo, là con cô gọi: “Mẹ ơi, sao chưa về nhà”.

Cô mới sực nhớ đã xế chiều, ban nãy cô từ trường chạy ra đây, quên mất báo một tiếng cho chồng con. Cô chạy xe về nhà, dọc theo dòng sông. Dòng nước ấy đã không chỉ chảy quanh cù lao quê cô, mà còn chảy trong lòng bao thế hệ, tạo thành mạch ngầm nuôi sống mảnh ký ức mong manh của mỗi người. Nó đã lấy đi đất đai của làng, nhưng cho lại cũng không ít. Cô chợt nhận ra rằng lỗi kia đâu phải tại con sông. “Có duyên sẽ gặp”, cô tin nếu có duyên với mảnh đất yêu thương nầy, một ngày nào đó sẽ gặp lại. Mà nếu như không gặp được, thì thế hệ con cô, cháu cô, nhứt định chúng sẽ gặp. Đất đi… Ừ thì, đất đi. Rồi cũng có ngày đất sẽ lại trở về... l

...................................

[*] Lời bài hát “Trở về dòng sông tuổi thơ” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp

Chia sẻ bài viết