10/12/2017 - 16:44

Chờ đò 

Bà ngồi lặng lẽ nhìn dòng kinh thăm thẳm, gió thổi lồng lộng suốt bốn mùa mưa nắng. Đôi mắt của bà không còn tinh anh, nhưng vẫn sáng lên khi  nhớ chuyện ngày xưa. Bà nói: “Người ta gọi tôi là bà Bảy Nước Tương, Bảy Dọn, Bảy Đò… mà có lẽ cái tên Bảy Đò gắn bó hơn hết với đời tôi”- bà lão 81 tuổi nói như vậy.

Những người sống lâu năm ở ấp Đông Thạnh, xã Đông Thuận, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ không xa lạ gì với bà Bảy Đò. Bà tên thật Thái Thị Sáng, sanh năm 1928, tính bà thật thà chất phát, vui vẻ lại hay chuyện nên lối xóm và con cháu ai cũng kính mến.

Bà Thái Thị Sáng, người chèo đò đưa học trò 30 năm.

Bà Bảy Đò thường kể chuyện đời mình làm nông lúc bà còn con gái. Bấy giờ trồng lúa một vụ, người làm nông cấy lúa giâm sang cấy lúa mùa, vừa dứt tay thì mùa nuớc nổi dâng lên, các kẽ tay, kẽ bàn chân bị nước ăn lở loét hết. Mỗi sáng nấu cơm sớm ăn cho no bụng để nghe ngóng coi có lính đi càn quét hướng nào để tránh né, hoặc cho các anh em hay để đối phó. Chiều cũng vậy, ăn cơm sớm để chuẩn bị chun xuống hầm trốn bom đạn.

Sau ngày hòa bình, bà Bảy đi bán nước tương, nước mắm để nuôi 7 người con, khi ông Bảy vừa qua đời. Bà tảo tần hôm sớm nhưng trên môi không ngớt nụ cười với mọi người. Bà nói: “Đời mình nghèo tiền, nhưng chẳng lẽ nghèo nụ cười sao?”. Nói về cơ duyên đưa đò, bà Bảy tâm sự: “Bữa đó, trời trưa nắng gắt, dòng kinh Thị Đội nước chảy xiết, khi ghe nước tương của tôi vừa tấp vô bến thì chợt thấy có đám học trò năm, bảy đứa ngồi vọc nước trên bến mà mắt cứ trông qua trường học. Hỏi trống đánh vô học rồi mà các con sao còn ngồi đây. Có đứa ứa nước mắt nói, không có xuồng qua sông”.

Bữa đó bà dọn mấy hũ nước tương nước mắm lên bờ, rồi kêu mấy đứa nhỏ xuống ghe bà đưa qua sông. Học trò được qua sông cám ơn bà Bảy không ngớt lời. Từ đó, ánh mắt học trò ngồi chờ xuồng qua sông cứ ray rứt trong lòng bà Bảy, nên bà có đi bán ở đâu cũng nhớ khoảng trưa chèo qua bến cho học trò qua sông. Rồi học trò quen nếp cứ sáng trưa chiều tụ tập ở bến sông nhà bà. Bà dù đang tất tả ở đâu cũng ráng về.

Các lão nông kể rằng bên kia con kinh là Trường Tiểu học ấp Đông Thành, bên này là ấp Đông Thạnh thuộc xã Đông Thuận, giáp với Giồng Riềng tỉnh Kiên Giang (Rạch Giá). Vào đầu thế kỷ XX, Pháp đào kinh xáng Xà No, Bà Đầm và kinh Thị Đội này, hình thành đồn điền Bảy Ngàn, do quan Tây Albert Gressier làm chủ. Đồn điền này giáp với Đồn điền Cờ Đỏ, cắt một phần diện tích mênh mông đất nông nghiệp vào tay quan Pháp. Đầu kinh xáng là xã Thới Lai (bây giờ là huyện Thới Lai, TP Cần Thơ), cuối kinh giáp Giồng Riềng, Kiên Giang. Kinh Thị Đội dài 20km không có cây cầu nào bắt ngang qua sông. Người dân ở miệt này chủ yếu đi lại bằng xuồng ghe hoặc lội bộ.

Xã Đông Thuận nằm ở cây số thứ 7 đến 20 của kinh xáng. Học trò vùng này quen đi bộ và rất giỏi bơi lội. Vào tháng giêng nước ròng cạn, dưới kinh nước chỉ còn vài mét, bọn con trai cởi quần dài lội qua sông, con gái thì ngồi đợi xuồng ai qua lại hỏi quá giang. Có khi đợi hoài không thấy xuồng qua, trễ học, đành ôm tập về nhà. Còn mùa nước nổi, học trò năm ba đứa kiếm chiếc xuồng bơi đi học. Thầy cô cũng đi bằng xuống đến trường.

Hồi ấy, ở xứ này ai có được chiếc xuồng, hoặc chiếc ghe là sang lắm. Bà Bảy may mắn có được chiếc ghe tam bản nhỏ chở 30 giạ lúa, tương đương sáu trăm ký, là nhứt xứ. Bà Bảy dùng chiếc ghe làm phương tiện đi bán nước tương, nước mắm. Nhờ chiếc ghe này mà bà nuôi bảy đứa con, một mình vừa làm cha, vừa làm mẹ.

Bởi dòng kinh dài “cá lội biệt tăm”, chợ búa xa xôi, mỗi lần đi chợ rất khó khăn, nghề bán nước tương, nước mắm của bà Bảy rất phát đạt. Thế nên, người ta thắc mắc hỏi bà Bảy: Bà bán nước tương được quá, sao đổi nghề chèo đò vậy?

Bà Bảy tâm sự: “Thấy tôi có chiếc ghe đưa học trò qua sông, nhà tôi lại xéo trường học, nên tụi nhỏ rủ nhau tới bến nhà tôi ngồi đợi. Có khi tôi không về kịp, tụi nhỏ trễ giờ, bị thầy cô xử phạt, mấy đứa con trai bỏ đi chơi rong, xao lãng học hành. Thử hỏi ai làm ngơ cho được! Thấy đám học trò nhớ lại tuổi thơ của mình, khi xưa không may mắn được đi học, nên tiếc nuối. Giờ thấy bọn nhỏ được đi học như thấy chính mình được học. Tự thấy mình có trách nhiệm. Nên tôi đi bán đâu cũng tranh thủ về đúng giờ đưa tụi nhỏ qua sông. Phụ huynh nghe chuyện tôi tranh thủ mua bán đưa học trò qua sông rủ nhau đến nhà động viên tôi đưa đò. Tình cảm chòm xóm và nhớ việc thất học của mình khi xưa, nên tôi hứa”.

Nước tương, nước mắm của bà Bảy được dọn lên bờ, thay vào đó bà đóng hai cái băng hai bên be ghe làm chỗ ngồi cho học sinh. Thầy cô cũng đến bến của bà qua sông. Bà không lấy tiền học trò, thầy cô, cán bộ. Biết bà Bảy không lấy tiền nên có người mua vật liệu trám những chỗ bị rịn nước trên chiếc ghe của bà Bảy, hoặc giúp đỡ những phương tiện khác cho bà. Từ đó bà có tên Bà Bảy Đò.

Lâu ngày chiếc ghe tam bản hư mục, bà mua xuồng chèo “năm quăng” là loại xuồng đóng miệt Chợ Mới- An Giang bằng loại cây tạp, gọi là “năm quăng” có nghĩa đi được 1 năm rồi bỏ. Dù là cây tạp nhưng bà kỹ lưỡng chèo được 2 năm mới bỏ.

Tôi hỏi bà Bảy đưa đò được bao nhiêu năm rồi. Bà nói: Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng đã qua một xác ghe bằng sao và 7 chiếc ghe “năm quăng”. Tôi đưa học trò lúc bé xíu mới đi học mà giờ có đứa làm tới hiệu trưởng, có gia đình vợ con, rồi đời con của hiệu trưởng cũng vào trường, tôi lại đưa qua sông. Nơi bến sông này, tôi đã chứng kiến rất nhiều học trò lúc còn con nít nay đã thành người lớn.

Quê hương xứ sở ngày một phát triển, xóm ấp ngày một giàu có, học trò và khách qua sông cũng ngày một đông hơn, thầy cô bàn cùng chính quyền góp tiền đóng cho bà Bảy chiếc chẹt, có gắn máy đuôi tôm, chở được nhiều người và qua lại cho vững, an toàn. Một hôm trời mưa, từ chẹt bước lên bến, bà bị trợt chân té cấn xương đùi, phải nằm bệnh viện. Khi trở về, bà Bảy yếu sức, bước đi chậm chạp nên kêu con trai thay bà đưa đò.

Sợ bỏ bê học trò qua sông, bà Bảy bắt ghế ngồi tại bến đò để nhắc nhở con cẩn thận chuyện đưa đò. Bà nói: Thấy học trò qua sông đến trường là lòng tôi vui lắm! Tôi phải ngồi đây nhắc nhở, sợ thằng con trai ham chơi bỏ lỡ những chuyến qua sông, tội nghiệp học trò.

Tôi được nghe cô cán bộ xã Đông Thuận kể rằng, ngày xưa cô là một trong những học trò được bà Bảy đưa qua sông mỗi buổi đến trường. Thời đó, nỗi sợ nhứt của học trò là chờ đò. Có khi chờ từ lúc trống đánh vô học, rồi trống tan học, mà chưa có xuồng quá giang qua sông.

Từ khi có bà Bảy đưa đò, cô và các bạn yên tâm đi học. Học trò ai cũng mến bà Bảy. Thương những lúc tan học trời mưa tầm tã, bà không ngại ướt lạnh đội nón chèo qua rước học trò về. Còn những khi mùa nước đổ chảy xiết lại thêm gió ngược, chiếc ghe chở đầy học sinh nặng nề nhích từng mái chèo nhưng bà không một tiếng than phiền. Tính ra, bà Bảy chèo đò xuyên suốt 30 năm- 1980 đến năm 2012, sau lần bị té bà mới để con trai thay. 30 năm đó, bà đã nối bước đến trường cho hàng vạn lượt học sinh.

Kinh Thị Đội dài ngót hai mươi cây số giờ đã có cầu, xa xa có đò ngang. Nắng gió bốn mùa thổi suốt, nhưng ở đó luôn có hình ảnh bà Bảy chèo đò đã in sâu ký ức nhiều thế hệ học trò.

Bút ký: NHẬT HỒNG 

Chia sẻ bài viết