30/08/2011 - 08:51

THU HÚT FDI VÀO ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Cần chiến lược chung và cách làm mới

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có nhiều đóng góp quan trọng cho cả nước, nhưng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chưa tương xứng với tiềm năng, vai trò, vị trí. Trong giai đoạn dòng vốn đầu tư trong khu vực, trên thế giới đang có xu hướng dịch chuyển theo hướng tái cấu trúc của các nền kinh tế thì việc nhận diện đúng thực trạng, có chiến lược thu hút đầu tư, tư duy phát triển và các giải pháp phù hợp, đồng bộ là những vấn đề cần quan tâm để tăng cường thu hút FDI vào ĐBSCL…

* Từ khu vực thu hút vốn FDI sớm nhất đến... “vùng trũng”

Phố biển Rạch Giá (Kiên Giang). 

Năm 1988, ĐBSCL đã có 5 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 7,8 triệu USD, bằng 10% về số dự án và 2,09% tổng vốn đầu tư của cả nước. Các dự án có vốn FDI đầu tiên này chủ yếu tập trung ở TP Cần Thơ (tỉnh Hậu Giang cũ) trong lĩnh vực nông nghiệp. Ở giai đoạn đầu, cùng cả nước thực hiện chính sách mở cửa kinh tế, đẩy mạnh thu hút FDI, ĐBSCL có nhiều lợi thế nhờ nguồn lao động dồi dào, nhân công rẻ, là vùng nguyên liệu nông sản lớn. Tuy nhiên, những giai đoạn tiếp theo, trong khi các tỉnh miền Đông Nam Bộ như Bình Dương, Đồng Nai nhanh chóng “chuyển mình” tận dụng lợi thế liền kề TP Hồ Chí Minh, thực hiện chính sách “trải thảm đỏ” cần thiết, nhưng các tỉnh ĐBSCL vẫn “ì ạch” trong thu hút FDI. Những trở ngại chủ yếu của vùng là hạ tầng giao thông kém, đầu tư công hạn chế, thiếu động lực, lao động qua đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu nhà đầu tư, chính sách thu hút đầu tư rập khuôn, thiếu liên kết chặt chẽ để phát huy thế mạnh... Vì vậy, mặc dù là “điểm sáng” ở thời kỳ đầu, nhưng ĐBSCL trong nhiều năm nay lại là “vùng trũng” trong bản đồ thu hút đầu tư cả nước.

Theo Cục đầu tư nước ngoài Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 8 tháng đầu năm 2011, toàn vùng ĐBSCL thu hút thêm 53 dự án FDI với 125,36 triệu USD, xếp thứ 5/6 vùng cả nước, chỉ cao hơn Tây Nguyên. Lũy kế đến nay, ĐBSCL có 612 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 9.756 triệu USD; xếp thứ 4/6 khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ hơn Tây Nguyên và các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc... Nhìn chuỗi dòng vốn FDI vào ĐBSCL thời gian qua, nhiều năm liền, vốn này tập trung chủ yếu ở Long An, Tiền Giang - nhờ lợi thế liền kề TP Hồ Chí Minh, “cửa ngõ miền Tây”. Năm 2010, toàn vùng ĐBSCL thu hút 1.740 triệu USD, thì có 757,6 triệu USD thuộc Long An và Tiền Giang, chiếm 43,5% tổng vốn FDI của toàn vùng. Lũy kế cho đến nay, 2 địa phương này thu hút 408 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 4.028 triệu USD, chiếm 66,7% dự án và 41,3% tổng vốn FDI của cả ĐBSCL. Thời gian gần đây, TP Cần Thơ – trung tâm vùng cùng với Kiên Giang, Cà Mau và An Giang là 4 địa phương nằm trong “Tứ giác phát triển” của vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL cũng trở thành địa bàn trọng điểm thu hút FDI. Đến nay, các địa phương này có 92 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 4.616 triệu USD, chiếm 47,2% tổng vốn toàn vùng...

Kết quả thu hút FDI những năm gần đây của ĐBSCL đã có những khởi sắc nhờ những cải thiện về cơ sở hạ tầng, tập trung đầu tư dồn sức phát triển các khâu đột phá. Cụ thể như: giao thông, thủy lợi, giáo dục – đào tạo và dạy nghề; thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL, tăng cường đầu tư cho TP Cần Thơ – trung tâm vùng; Phú Quốc, Kiên Giang, trung tâm công nghiệp khí – điện – đạm Cà Mau và bước đầu hình thành, phát huy vai trò vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, yêu cầu phát triển vẫn đang đặt ra cho vùng đất giàu tiềm năng này nhiều thách thức phải vượt qua...

* Thu hút FDI – cần tư duy và chiến lược cho vùng ĐBSCL

Quyết định phê duyệt Qui hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 của Thủ tướng Chính phủ xác định: ĐBSCL đến năm 2050 sẽ là vùng nông sản lớn trong mạng lưới sản xuất toàn cầu; là vùng kinh tế phát triển năng động, bền vững, có môi trường đầu tư thuận lợi... Đó là mục tiêu chiến lược của một tầm nhìn chiến lược, định vị ĐBSCL không chỉ trong phạm vi quốc gia mà nhìn ra quốc tế. Nhưng để đạt được mục tiêu đó, phải chọn cách làm, cần một tư duy phát triển, bao gồm cả thu hút FDI.

Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều qui hoạch cấp vùng đã được ban hành, vẫn chưa có một chiến lược hay qui hoạch thu hút đầu tư FDI nào cho ĐBSCL. Thiếu một chiến lược, lúng túng trong tiếp cận các đối tác, nôn nóng muốn thoát khỏi “vùng trũng”... là nguyên nhân dẫn đến cạnh tranh thiếu lành mạnh trong thu hút đầu tư giữa các địa phương trong vùng. Vì thế, nắm tay chia sẻ lợi ích, chia sẻ thị trường, khai thác lợi thế chung của vùng về cơ sở hạ tầng: sân bay, cảng biển, cầu đường, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực là mấu chốt để tránh đầu tư lãng phí, cải thiện thu hút đầu tư. Bởi lẽ kinh tế vùng không chỉ cho ĐBSCL, mà còn cho TP Hồ Chí Minh, miền Đông Nam Bộ và các kết nối liên vùng khác. Lợi thế của ĐBSCL không chỉ với các sản phẩm nông nghiệp mà còn là từ vị trí địa lý chiến lược trong cục diện mới. Đó là thế mạnh để phát triển kinh tế biển; từ đảo ngọc Phú Quốc đến tuyến hàng hải quốc tế rất gần, tuyến hành lang kinh tế trong Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng; từ thế “tựa lưng” với TP Hồ Chí Minh, ngước mặt ra biển Đông, “kề vai” tuyến biên giới Tây Nam, nằm trong bán kính 500 km của ASEAN mà vùng châu thổ này là tâm điểm... Nếu gắn kết được quá trình liên kết các chuỗi giá trị kinh tế, đây sẽ là khâu đột phá để ĐBSCL trở thành một cực thu hút đầu tư và tăng trưởng trong những thập niên tới.

Nhu cầu bức xúc hiện nay là những cơ chế, chính sách tốt để thúc đẩy liên kết vùng. Các tỉnh trong vùng, các bộ, ngành Trung ương đã có tiếng nói chung, thông qua nhiều hoạt động như: Diễn đàn hợp tác kinh tế ĐBSCL được tổ chức hàng năm, thành công của Hội nghị xúc tiến đầu tư vùng ĐBSCL năm 2010 thay cho các hoạt động riêng lẻ, chồng chéo của các tỉnh. Việc tích cực chuẩn bị để ra đời Hội đồng doanh nghiệp ĐBSCL và Diễn đàn doanh nghiệp vùng, Hội nghị hợp tác kinh tế quốc tế vùng ĐBSCL sẽ diễn ra vào tháng 10-2011 tại Cà Mau... là những nỗ lực liên kết đáng ghi nhận... Liên kết giữa các tỉnh trong vùng sâu và đạt đến độ có thể biến những lợi thế nổi trội của từng địa phương thành “lợi thế dùng chung” của cả ĐBSCL thì sẽ hình thành được phong cách làm việc mới xây dựng một cực tăng trưởng mới của đất nước trong các thập niên tới.

TRẦN HỮU HIỆP (Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ)

Chia sẻ bài viết